31 thg 10, 2015

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ



Tin Mừng: Mt 5, 1-12a          
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

Solemnity of All Saints

Gospel  Mt 5, 1-12a
When Jesus saw the crowds, he went up the mountain,
and after he had sat down, his disciples came to him.
He began to teach them, saying:

“Blessed are the poor in spirit,
for theirs is the Kingdom of heaven.
Blessed are they who mourn,
for they will be comforted.
Blessed are the meek,
for they will inherit the land.
Blessed are they who hunger and thirst for righteousness,
for they will be satisfied.
Blessed are the merciful,
for they will be shown mercy.
Blessed are the clean of heart,
for they will see God.
Blessed are the peacemakers,
for they will be called children of God.
Blessed are they who are persecuted for the sake of righteousness,
for theirs is the Kingdom of heaven.
Blessed are you when they insult you and persecute you
and utter every kind of evil against you falsely because of me.
Rejoice and be glad,
for your reward will be great in heaven.”

Nước trời là của họ (01.11.2015 – Chúa nhật – Lễ Các thánh nam nữ)


Lời Chúa: Mt 5, 1-12a
1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi.
Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.
2 Người mở miệng dạy họ rằng:3 “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
4 Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
5 Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
7 Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.
11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả,
bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
12 Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
Suy nim:
Nếu chúng ta được lên trời để thăm các thánh,
hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng.
Các thánh không phải chỉ là những vị được tôn phong,
mà là tất cả những ai đang hưởng hạnh phúc trên trời.
Các thánh thật khác nhau về nhiều mặt:
giới tính, tuổi tác, màu da, tiếng nói, nghề nghiệp,
hoàn cảnh, thời đại, bậc sống, khả năng, tính tình…
Có người không biết viết như thánh nữ Catarina Siêna.
Có người đậu tiến sĩ triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein.
Có người làm bao phép lạ phi thường như ngôn sứ Êlia.
Có người sống âm thầm như chị Têrêsa nhỏ.
Nói chung chẳng gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh,
vì Thiên Chúa muốn mọi người nên thánh chẳng trừ ai.
Các mối phúc là con đường nên thánh.
Con đường này chính Ðức Kitô đã đi và mời ta cùng đi.
Ngài mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành,
nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa,
có lòng khát khao sự công chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài.
Trong tương quan với tha nhân, Ðức Kitô mời ta
có lòng thương xót, biết đau nỗi đau của người khác,
có tâm hồn trong sạch, nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành,
có tinh thần xây dựng hòa bình và công bằng xã hội,
nghĩa là chăm lo phát triển toàn diện từng người và mọi người.
Sống các mối phúc trên là chấp nhận mối phúc bị bách hại.
Mỗi vị thánh đều sống nổi bật trong một số mối phúc.
Họ đã nếm phần nào hạnh phúc từ đời này
trước khi hưởng hạnh phúc trọn vẹn bền vững trên trời.
Chúng ta thường nghĩ nên thánh là chuyện cao siêu
dành cho một thiểu số hết sức đặc biệt.
Thật ra mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh.
“Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời.”Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn mọi sự thánh thiện.
Ngài mời chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài.
Nên thánh là đáp trả lời mời đó.
Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì.
Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống,
là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình
đẻ sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa
và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại.
Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tặng trao,
là để cho Chúa yêu mình, nắm tay mình,
dắt mình vào thế giới riêng tư của Chúa.
Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em,
là để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Chúa mời tôi nên thánh với con người và hoàn cảnh riêng.
với sa ngã của quá khứ và mỏng giòn của hiện tại,
với cái dằm vẫn thường xuyên làm tôi nhức nhối.
Chúa muốn tôi nên thánh với mặt mạnh, mặt yếu của tôi.
Ước gì đời tôi vén mở một nét nào đó của Chúa.
Cầu nguyn:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Chân phước Charles de Foucauld)
  Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Một Ngày Ðể Nhớ Ðến Thần Dữ


Hôm nay ngày cuối tháng 10. Buổi chiều ngày cuối tháng 10 được người Mỹ và các nước chịu ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, nghĩa là vọng lễ các thánh.
Có lẽ do những rơi rớt còn lại của một ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời những người Celtic trước Công nguyên, ngày vọng lễ các thánh mang màu sắc ảm đạm ma quái.
Trong các cửa tiệm, hàng hóa được trưng bày một khung cảnh quái dị: những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa giăng mắc khắp nơi, những đồ chơi trẻ em cũng được khoác lên những nét kinh hãi quái dị. Trên màn ảnh truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị. Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe chuyện ma quái.
Phải chăng mỗi năm người ta dành một ngày để nhắc nhở về sự hiện hữu và tác quái của thần dữ? Nhưng liệu con người ngày nay còn ý thức được tội lỗi và sự tác động củ thần dữ không?
Thi sĩ Baudelaire của Pháp đã có lần nói: "Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng nó không hiện hữu".
Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Kinh thánh nói đến chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay khoa học có thể tìm ra nguyên nhân. Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào đã loại trừ ma quỷ ra khỏi cuộc sống.
Có lẽ ngày nay, người ta ít có dịp chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tường như Thánh kinh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, không ai có thể chối cãi được một sức mạnh luôn cày xéo tâm hồn con người, luôn lôi kéo con người đến chỗ tự hủy và hủy diệt lẫn nhau. Mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng cho kinh nghiệm của mỗi người: "Ðiều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn là, thì tôi lại làm". Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn khuyến dụ, luôn lôi kéo con người vào tội ác... Thánh Phêrô hẳn không thể nào quên được lời cảnh cáo của Chúa Giêsu: "Hỡi Satan, hãy tránh khỏi mặt Ta". Trong lá thư đầu tiên gửi cho các tín hữu, vị Giáo Hoàng đầu tiên đã nhắn nhủ: "Hãy tỉnh thức luôn. Kẻ thù của anh em là ma quỷ như sư tử luôn gầm thét lượn quanh, tìm mồi để cắn xé. Anh em hãy chống cự và kiên vững trong Ðức Tin".
Là người tín hữu, chúng ta không ngừng cầu nguyện bằng chính lời Kinh của Chúa Giêsu: "Xin cứu chúng con khỏi ác thần". Ước gì lời Kinh ấy luôn nhắc nhở chúng ta về sự tác động liên lỉ của ma quỷ trong cuộc sống của từng người chúng ta. Nhưng chúng ta không phải hãi sợ bởi vì chúng ta không chiến đấu một mình mà cùng với và bằng chính sức mạnh của Ðấng đã nói: "Ðừng sợ hãi, vì Ta đã thắng thế gian".
(Radio Veritas Asia)

30 thg 10, 2015

Ngồi chỗ cuối (31.10.2015 – Thứ bảy Tuần 30 Thường niên)


Lời Chúa: Lc 14, 1.7-11
Một ngày sabát kia, Ðức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này.” Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho.” Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.” Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Suy nim:
Khi thấy các khách dự tiệc có khuynh hướng chọn ngồi chỗ nhất, 
Đức Giêsu đưa ra một lời khuyên đối với họ (cc. 8-10). 
Mới nghe những lời khuyên này, 
ta có cảm tưởng đây chỉ là những lời dạy cách ứng xử khôn khéo. 
Nên chọn ngồi chỗ cuối, 
vì nếu chủ tiệc sắp xếp lại chỗ ngồi theo thứ bậc, 
bạn có cơ hội được mời lên chỗ trên. 
Thà ngồi dưới rồi được đưa lên, còn hơn ngồi trên mà bị kéo xuống. 
Như thế ngồi chỗ cuối rốt cuộc chỉ là một giả vờ, 
để che dấu tham vọng muốn được ngồi lên trên. 
Ngồi chỗ cuối chỉ là để tránh một xấu hổ, sỉ nhục, 
và nhắm đến một vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn (cc. 9-10). 
Đức Giêsu có ý khuyên dạy người ta như thế không? 
Chắc là không.
Qua dụ ngôn đơn sơ và có thể gây hiểu lầm trên đây (c. 7), 
Đức Giêsu muốn nói với khách dự tiệc một điều quan trọng hơn nhiều. 
Bài ca Magnificat đã nói đến một sự đảo ngược lớn lao sẽ xảy ra: 
Chúa dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi kẻ giàu sang, 
nhưng nâng cao kẻ khiêm nhường, ban dư đầy cho người đói (1, 51-53). 
Các Mối Phúc cho và Khốn cho cũng nói lên sự đảo ngược này. 
Phúc cho người nghèo, người đói, người khóc than. 
Khốn cho người giàu, người no, người được ca tụng (6, 20-26). 
Dụ ngôn Ladarô và ông nhà giàu là một minh họa về điều đó (16, 19-31). 
Trong câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay, 
Đức Giêsu cũng nói lên sự đảo ngược ấy khi Nước Thiên Chúa đến. 
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. 
Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (c. 11). 
Bị hạ xuống trong bữa tiệc, thật là điều hổ nhục. 
Nhưng bị Thiên Chúa hạ xuống trong ngày sau hết thì kinh khủng hơn nhiều. 
Nỗi hổ nhục sẽ muôn đời còn mãi.
Để thực hành lời khuyên của Đức Giêsu cho đúng đắn, 
thánh Basiliô cho ta một soi sáng như sau: 
“Chúng ta phải để cho chủ tiệc lo chuyện xếp chỗ các khách mời. 
Như thế chúng ta mới nâng đỡ lẫn nhau trong nhẫn nhục và bác ái, 
đối xử với nhau trong sự kính trọng, 
xa tránh mọi tìm kiếm hư danh và khoe khoang. 
Chúng ta không giả vờ khiêm tốn. 
Bởi lẽ thích tranh chấp và cãi vã là dấu hiệu kiêu ngạo 
còn lớn hơn chuyện ngồi ghế đầu khi phải ngồi chỉ vì vâng phục.” 
Kitô hữu vẫn phải đối diện với cám dỗ của tham vọng và quyền uy. 
Ngấm ngầm hay lộ liễu, những tranh giành ảnh hưởng vẫn xảy ra. 
Trong lòng, ai cũng nghĩ mình xứng đáng hơn người khác. 
Thèm muốn vinh dự, chức tước, đã gây bao chia rẽ trong Giáo Hội. 
Chỉ mong tôi thực sự hạ mình trước anh em tôi.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu 
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

29 thg 10, 2015

Chữa khỏi và cho về (30.10.2015 – Thứ Sáu Tuần 30 Thường niên)


Lời Chúa: Lc 14, 1-6
1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người.2 Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng.3 Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: “Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không? “4 Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về.5 Rồi Người nói với họ: “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát? “6 Và họ không thể đáp lại những lời
Suy niệm:
Sau khi dự nghi thức ở hội đường vào ngày sabát, 
người ta thường mời khách về nhà dùng bữa trưa. 
Bữa ăn này đã được chuẩn bị từ ngày hôm trước. 
Hôm nay Đức Giêsu lại được một người Pharisêu mời dùng bữa. 
Đây là lần thứ ba Ngài được mời ăn như thế (x. Lc 7, 36; 11, 37). 
Và đây cũng là lần thứ ba có sự căng thẳng 
vì Ngài chữa bệnh trong ngày sabát (x. Lc 6, 6; 13, 10). 
Những người Pharisêu trong bữa ăn hôm nay chăm chú nhìn Ngài (c. 1).
Chúng ta không rõ người mắc bệnh phù thũng có là khách không. 
Hay phải chăng anh ấy là người không mời mà đến? 
Nếu là khách thì tại sao Đức Giêsu lại cho anh về sau khi chữa khỏi? 
Dù sao thì anh ấy cũng đang đứng trước mặt Đức Giêsu (c. 2). 
Ngài thấy những dấu hiệu của bệnh phù thũng nơi thân xác anh. 
Trên người anh có chỗ sưng lên vì nước bị ứ lại. 
Chính Đức Giêsu là người chủ động đặt vấn đề với người Pharisêu. 
“Có được phép chữa bệnh trong ngày sabát không ?” (c. 3). 
Hiển nhiên đối với họ, chỉ được phép chữa những bệnh nhân hấp hối. 
Anh bị phù thũng không nằm trong diện này. 
Vậy mà họ đã giữ thái độ thinh lặng trước câu hỏi đó (c. 4).
Đức Giêsu đã chữa bệnh cho anh chỉ bằng một cử chỉ đỡ lấy. 
Không có lời nói nào kèm theo. 
Có lẽ anh đã đi về nhà, lòng vui sướng vì được khỏi bệnh. 
Đức Giêsu đã muốn biện minh cho hành vi chữa bệnh trong ngày sabát 
bằng một câu hỏi về cách ứng xử trong một trường hợp cụ thể (c. 5). 
“Giả như các ông có đứa con trai hoặc con bò sa xuống giếng, 
các ông lại không kéo nó lên ngay lập tức, dù là ngày sabát sao?” 
Họ đã không thể đưa ra câu trả lời, 
vì dĩ nhiên là phải kéo nó lên ngay, trước khi nó chết dưới giếng. 
Đối với Đức Giêsu, chữa bệnh đơn giản là kéo một người lên ngay. 
Dù Ngài không phủ nhận tầm quan trọng của việc giữ ngày sabát, 
nhưng ngày sabát lại không cấm làm điều phải làm, đó là chữa bệnh.
Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến nhu cầu của con người. 
Nếu để đến hôm sau mới chữa cho anh phù thũng thì cũng được. 
Nếu để bà còng lưng mười tám năm chịu thêm một ngày cũng không sao. 
Nhưng Ngài muốn giải phóng con người ngay lập tức, khi có thể được. 
Ngài muốn làm vơi nỗi đau kéo dài đã lâu của con người. 
Chính vì bà còng lưng đã mười tám năm đau khổ 
nên không cần kéo dài thêm, dù chỉ một ngày nữa. 
Luật lệ đạo đời nhằm phục vụ cho hạnh phúc thực sự của con người. 
Trong cuộc sống hôm nay, có nhiều việc cần làm ngay. 
Có bao mảnh đời sắp bị đổ vỡ, có những nguy cơ đe dọa nhân phẩm, 
có những người trẻ đứng trên bờ vực, có những thai nhi bị chối từ. 
Làm sao chúng ta không dửng dưng với những em nhỏ ở kề miệng giếng, 
và không quay lưng với những người đã sa xuống vực sâu?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
 

28 thg 10, 2015

Hôm nay, ngày mai (29.10.2015 – Thứ Năm Tuần 30 Thường niên)


Lời Chúa: Lc 13, 31-35
Khi ấy, có mấy người Pharisêu đến thưa Ðức Giêsu rằng: “Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông!” Người bảo họ: “Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được. Giêrusalem, Giêrusalem! Người giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Ðã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các người không chịu. Thì này, nhà các người sẽ bị bỏ mặc cho các người. Mà Ta nói cho các người hay: các người sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các người nói: ‘Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa!’”
Suy niệm:
Sống là bước đi mỗi ngày trong cuộc hành trình, phiêu lưu. 
Hơn ai hết Đức Giêsu đã sống phận người của mình như thế. 
Cuộc sống nay đây mai đó, không chỗ tựa đầu. 
Cuộc sống bấp bênh, sống nhờ lòng tốt của người khác. 
Hơn thế nữa, cuộc sống này còn bị đe dọa bởi quyền bính đạo đời. 
Trong bài Tin Mừng hôm nay, vài người Pharisêu báo tin cho Đức Giêsu 
về việc tiểu vương Hêrôđê muốn giết Ngài (c. 31). 
Họ khuyên Ngài nên ra khỏi vùng đất dưới quyền của Hêrôđê, 
vì chính ông này đã giết ngôn sứ Gioan Tẩy giả.
Đức Giêsu lộ vẻ ung dung, không sợ hãi gì. 
Ngài gọi Hêrôđê là con cáo, một con vật ranh mãnh quỷ quyệt (c. 32). 
Đe dọa của ông ta không làm Ngài chùn bước. 
Ngài vẫn tiếp tục làm điều đã làm như trừ quỷ và chữa bệnh. 
Hôm nay, ngày mai, ngày mốt vẫn cứ như thế. 
“Tôi phải tiếp tục đi” (c. 33). 
Đức Giêsu biết rất rõ mình đang đi đâu và đến đâu. 
Ngài sẽ tiếp tục lên đường, không phải vì sợ quyền lực của Hêrôđê, 
nhưng vì Ngài chấp nhận ở dưới quyền của Thiên Chúa. 
Ngài hướng tới Giêrusalem, nơi nhiều ngôn sứ đã chịu bách hại. 
Đức Giêsu ý thức mình là một ngôn sứ của Thiên Chúa. 
Số phận của Ngài cũng chẳng hơn gì bao ngôn sứ khác. 
Cái chết đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem.
Giêrusalem là nơi đáng sợ, nhưng cũng là nơi đáng thương. 
Đức Giêsu đã âu yếm gọi hai lần: “Giêrusalem, Giêrusalem!” 
Ngài tự ví mình như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh. 
“Đã bao lần Ta muốn… nhưng các ngươi lại không muốn” (c. 34). 
Một tình yêu bị từ chối nên thốt lên những lời thở than. 
Vị ngôn sứ Giêsu phải dừng bước khi con người khép lòng mình lại. 
Án phạt đến từ thái độ từ khước của con người, 
giống như đàn gà con không để cho gà mẹ chở che dẫn dắt. 
“Nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi” (c. 35). 
Thiên Chúa bỏ đền thờ, bỏ thành thánh Giêrusalem mà đi, 
để mặc cho quân thù vây hãm và tiêu hủy. 
Nhưng rồi sẽ đến ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang. 
Lúc ấy mọi người sẽ tung hô: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.
Chúng ta cũng có sứ mạng làm ngôn sứ như Đức Giêsu. 
Những đe dọa, đụng chạm đến an toàn là điều không tránh khỏi. 
Nhưng chúng ta vẫn được mời gọi đi đến cùng con đường của mình, 
với một tinh thần bất khuất, không gì lay chuyển. 
Vẫn phải trung thành với việc được Thiên Chúa giao, 
dù điều đó dẫn ta đến với cái chết. 
Trước một Giêrusalem thù nghịch, xin có được đảm lược của Giêsu. 
Trước một Giêrusalem từ khước, xin có được lòng nhân hậu. 
Để trái tim chúng ta biết kết hợp đảm lược với lòng nhân.
Cầu nguyện:
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Gọi và chọn (28.10.2015 – Lễ thánh Simon và thánh Giuđa, tông đồ)


Lời Chúa: Lc 6, 12-19
12 Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.13 Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ.14Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô,15 Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích,16 Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.17Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn18 đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành.19 Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.
Suy niệm:
 Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện 
vào những thời điểm quan trọng. 
Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (3, 21). 
Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (9, 18). 
Khi đang cầu nguyện trên núi, Ngài được hiển dung (9, 29). 
Khi đứng trước cái chết gần kề, Ngài cầu nguyện trong xao xuyến (22, 41). 
Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (23, 34). 
Đức Giêsu suốt đời là con người cầu nguyện. 
Cầu nguyện đối với Ngài đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha. 
Ngài thích gặp Cha vì Ngài là người con thảo hiếu. 
Ngài cần gặp Cha vì Ngài là người được Cha sai, để làm việc Cha giao.
 Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Ngài. 
Đức Giêsu vẫn thích cầu nguyện trên núi. 
Núi cao làm Ngài thấy nhẹ nhàng và gần Cha trên trời hơn. 
Tối hôm nay, Ngài muốn dành nhiều giờ để gặp Cha 
trước khi đi đến một quyết định quan trọng, 
quyết định chọn những môn đệ thân tín nhất mà Ngài gọi là tông đồ, 
để đi sát với Ngài hơn và cộng tác với Ngài trong sứ vụ. 
Đức Giêsu không chọn theo ý mình. 
Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý (c. 12). 
Tìm ý Cha, ngay cả đối với Đức Giêsu, cũng không phải là quá dễ dàng. 
Ngài đã thức suốt một đêm để cầu nguyện, 
để tìm xem Cha muốn Ngài chọn ai trong số những môn đệ ở đây. 
“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con… 
Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6). 
Đức Giêsu coi các tông đồ là một quà tặng của Cha. 
Bởi đó, thật ra Ngài chỉ chọn những người Cha đã chọn, 
Ngài chỉ muốn những người Ngài biết Cha muốn (Mc 3, 13). 
Khi làm người ở đời, chúng ta cũng phải chọn như Đức Giêsu. 
Cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa. 
Những chọn lựa nhỏ và lớn làm nên cuộc đời. 
Chúng ta có thể chọn dựa trên ý thích hay phán đoán riêng của mình. 
Nhưng chúng ta cũng có thể chọn dựa trên ý Đấng Tạo Hóa. 
Điều này đòi chúng ta phải ra khỏi mình, không coi mình là trung tâm. 
Thánh Inhaxiô mời người làm linh thao 
“không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, 
danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu, 
và tương tự như thế đối với mọi sự khác.” 
Khi có thái độ siêu thoát như trên, ta mới có thể chọn điều Chúa muốn.
 Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định. 
Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha. 
Chúng ta cũng được gọi và chọn, dù là giáo dân hay tu sĩ. 
Chúng ta cũng rất khác nhau như mười hai khuôn mặt các vị tông đồ. 
Chỉ mong chúng ta đừng dùng tự do mình để trở nên kẻ phản bội.
 Cầu nguyện:
 Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
 Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
 Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.j.

26 thg 10, 2015

Lớn lên và trở thành (27.10.2015 – Thứ ba Tuần 30 Thường niên)


Lời Chúa: Lc 13, 18-21
18 Vậy Người nói: “Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì?19 Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.”20Người lại nói: “Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì?21 Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”

Suy niệm:
Hai dụ ngôn trên đây tỏ ra lạc quan và hy vọng. 
Nước Thiên Chúa đã được Đức Giêsu khai mở và loan báo. 
Nước ấy cần có thời gian để lớn lên, để tác động trên con người. 
Chắc chắn kết quả cuối cùng sẽ rất tốt đẹp.
Một người đàn ông ném vào khu vườn của mình một hạt cải nhỏ bé. 
Ông có ước mơ mong mỏi gì không? 
Vậy mà theo thời gian, hạt cải ấy đã lớn lên và trở thành một cây. 
Cây vững đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó được (c. 19). 
Đức Giêsu muốn làm nổi bật sự phát triển mạnh mẽ của Nước Trời. 
“Lớn lên và trở thành” là một tiến trình do Thiên Chúa dẫn dắt. 
Bất chấp những khó khăn trong hiện tại, Nước Trời vẫn cứ lớn lên, 
để rồi sẽ là nơi trú ngụ cho nhiều người ở khắp nơi tìm đến.
Một phụ nữ lấy men và vùi nó vào một lượng bột rất lớn. 
Men không nhiều, lại được vùi sâu, nên có vẻ như không hiện hữu. 
Nhưng trong thực tế, men đã có đó rồi và đang tác động trên bột. 
Với thời gian, men làm cả khối bột dậy men. 
Bấy giờ sức biến đổi của men mới được mọi người nhận biết. 
Khối bột lên men đã sẵn sàng trở nên những ổ bánh ngon lành. 
Đức Giêsu làm nổi bật sức mạnh của Nước Thiên Chúa 
trong việc biến đổi thế giới này từ bên trong. 
Chính sự tiếp xúc trực tiếp, sự thâm nhập của men vào bột 
đã tạo ra sự biến đổi kỳ diệu ấy.
Những lời giảng của Đức Giêsu đã vang lên từ hai mươi thế kỷ. 
Nước Thiên Chúa đã được Ngài khai mở và vun trồng mãi đến nay. 
Kitô giáo vẫn là một tôn giáo lớn, chiếm một phần ba dân số thế giới. 
Nhưng có những lúc chúng ta có cảm tưởng như nó bị chựng lại. 
Khi có nhiều nhà thờ phải bán đi vì không có người đi lễ Chúa nhật, 
khi các chủng viện hay dòng tu trở nên vắng vẻ, già nua, 
khi ở nhiều nơi số linh mục thiếu một cách trầm trọng, 
khi tỷ lệ tăng của Kitô hữu không bằng với tỷ lệ tăng của dân số thế giới. 
Kitô giáo có tương lai không? Kitô giáo có thể bị tàn lụi không? 
Những câu hỏi đó làm nhiều người bận tâm và lo lắng. 
Hai dụ ngôn của Đức Giêsu hôm nay đem lại cho ta niềm lạc quan. 
Nhưng đó không phải là thứ lạc quan vô trách nhiệm. 
Làm cho Nước Thiên Chúa lớn lên và thâm nhập vào thế giới hôm nay, 
đó không phải chỉ là chuyện của Thiên Chúa. 
Đó là chuyện của từng Kitô hữu chúng ta. 
Để hạt cải thành cây, cần một chút chăm bón. 
Ai trong chúng ta cũng là một nhúm men nhỏ được vùi trong đống bột, 
đống bột của trường học hay công ty, của một tập thể hay cộng đồng. 
Làm sao để men của chúng ta tạo ra những tác dụng tốt? 
Không cần phải làm những việc lớn lao để thay đổi bộ mặt thế giới. 
Chỉ xin làm một nhúm men nhỏ để đến với những người tôi gặp hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

CON CHIM SÁO


Trong một tập thơ mang tựa đề "Có muôn nghìn lý do để sống", Ðức Cha Helder Camera, vị giám mục người Brazil nổi tiếng là vị tông đồ của người nghèo đã ghi lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây: Bên cạnh nhà tôi, có một con chim sáo quanh năm ngày tháng sống giữa trời... Tôi vẫn có thói quen nói chuyện với nó. Một hôm, tôi hỏi chú sáo có nơi ngủ nghỉ không. Nó ngạc nhiên trả lời: "Có chứ!... Màn là trời, chiếu là đất. Có bao giờ thiếu đâu".
Do những đòi hỏi của trí khôn loài người, tôi mới hỏi nó: "Thế thì những lúc mưa gió, chú trú ngụ ở đâu". Nó nhanh nhẩu trả lời: "Bộ ông nghĩ là thỉnh thoảng tôi không cần tắm gội sao?" Tôi hỏi nó có đói không. Con chim sáo mỉm cười đáp: "Ðiều mà tôi muốn là được hót. Tôi sinh ra để hót mà...". Và nó cất tiếng hót như sau: "Hỡi loài người kiêu ngạo. Hãy nói cho ta biết đi: liệu ngươi không chết sao?".
Tôi cứ nài nỉ để chú sáo nhận món quà tôi biếu: đó là một ít bánh mì có thịt... Chú sáo lại được dịp cười cợt sự ngây ngô của tôi. Nó bảo tôi: "Ông không biết là loài sáo chúng tôi không có ăn bánh mì và thịt như các ông sao?".
Lần kia, tôi hỏi chú sáo có cầu nguyện không. Nó không hiểu được câu hỏi của tôi. Nó chỉ cười trả lời: "Có mấy chú nhóc con lấy đá ném tôi. Nhưng tôi bay đi, tôi cười và tôi hót".
Một lúc nào đó, tôi có ý nghĩ đưa con sáo vào bệnh viện để nhờ các bác sĩ tìm ra căn bệnh của nó và chữa trị cho nó. Nhưng tôi chợt nhận ra rằng nó chỉ là một con chim.
Qua câu chuyện ngụ ngôn trên đây, có lẽ Ðức Cha Helder Camera muốn gợi lên cho chúng ta cái thảm trạng của con người ngày nay: chiến tranh, chết chóc, đau khổ đều phát xuất từ chỗ con người không chấp nhận nhau. Ai cũng muốn người khác phải suy nghĩ như mình, phải hành động như mình, phải sống như mình. Ý thức hệ nào cũng cho là ưu việt và muốn áp đặt trên người khác ngay cả bằng bạo lực.
Ngày nay, con người mỗi lúc một ý thức hơn về sự đa diện của các nền văn hóa, của các khuynh hướng chính trị, của các tôn giáo... Sự trưởng thành của nhân loại được thể hiện qua chính sự chấp nhận ấy: chấp nhận sự khác biệt của tha nhân, chấp nhận tư tưởng của người khác. Khoan dung là thái độ mà con người ngày nay đang cần hơn bao giờ hết.
(Radio Veritas Asia)

BẤT NGỜ


Như một chuyện khó tin mà có thật: đó là chuyện của một chàng thanh niên Tây Ðức một mình lái chiếc Cessna cánh quạt nhỏ, vượt qua hành lang 400 dặm trên lãnh thổ Liên Xô, rồi an toàn đáp xuống Quảng Trường Ðỏ, gần điện Cẩm Linh... Trước khi đáp xuống vào lúc 7 giờ tối, phi cơ còn lượn 3 vòng chung quanh mộ của chủ tịch Lênin.
Người thanh niên Tây Ðức tên là Matthias Rust này đã điềm tĩnh bước ra khỏi phi cơ, ký sổ lưu niệm cho một số khách hiếu kỳ và khâm phục. Sau đó, công an Liên Xô đã đến tóm cổ anh đưa đi mất.
Trong suốt một cuộc hành trình dài, anh chỉ bị phi cơ tuần thám của Liên Xô theo dõi mà không làm cản trở. Có thể họ cho phi cơ của anh định làm chuyện kỳ lạ khác người cho nên không bắt anh đáp xuống nửa đường. Phi cơ lại bay rất thấp cho nên đã tránh được sự kiểm soát của các dàn Radar. Dù sao đây cũng là một chuyện khó tin chưa từng xảy ra trên một lãnh thổ có một hệ thống phòng thủ chặt chẽ như Liên Xô.
Sự thành công của chiếc phi cơ nhỏ này đã khiến cho nhà cầm quyền Liên Xô e ngại và giật mình về sự phòng thủ sơ sót của mình. Sau một cuộc họp khẩn cấp của Bộ Chính Trị, Tổng Trưởng Quốc Phòng và Bộ Trưởng Không Quân đã bị cách chức. Trong khi đó thì chủ tịch Gorbachov lại nói một câu khôi hài như sau: "Chúng ta phải cám ơn anh chàng Tây Ðức này vì nhờ có anh ta mà chúng ta mới cải tổ hệ thống phòng thủ của chúng ta chặt chẽ và cẩn thận hơn".
Nhiều người đã xem lời phát biểu trên đây phản ánh tinh thần phục thiện và cởi mở của chủ tịch Gorbachov.
Sự thành công của chàng thanh niên Matthias Rust khi đáp xuống Quảng trường Ðỏ có thể được xem như một tai nạn trong hệ thống phòng thủ của Liên Xô.
Tai nạn là một bất ngờ mà con người không bao giờ lường trước được... Không ai học được chữ ngờ trong cuộc sống. Có một cái gì đó luôn ở ngoài tầm tay, ở ngoài khả năng của con người. Bài học thông thường nhất mà ai cũng có thể học được từ một tai nạn: đó là không ai làm chủ được chính sự sống của mình.
Người Kitô luôn được mời gọi để tìm ra ý nghĩa của các biến cố. Biến cố nào xảy đến trong cuộc sống cũng là một lời ngỏ của Thiên Chúa đối với con người. Ngài nhắc nhở cho con người biết rằng Chủ Tế của sự sống chính là Ngài. Ngài kêu mời con người luôn sẵn sàng để đến với Ngài trong cuộc gặp gỡ tối hậu. Ngài cho con người thấy những giới hạn của mình để biết hướng về Ngài với tất cả tin tưởng phó thác.
(Radio Veritas Asia)

Đứng thẳng được (26.10.2015 – Thứ hai Tuần 30 Thường niên)

Lời Chúa: Lc 13, 10-17
10 Ngày sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường.11 Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được.12 Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi lại và bảo: “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền! “13 Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.14 Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát! “15 Chúa đáp: “Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước?16 Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? “17 Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện.
Suy niệm:
Trong dòng tiến hóa từ vượn lên đến người, 
có một thay đổi bên ngoài khá rõ nét. 
Càng tiến hóa thì lưng con vật càng thẳng hơn. 
Khi con người có thể đứng thẳng, tầm nhìn sẽ rộng hơn, xa hơn. 
Hai chi trước được tự do nên có thể làm được nhiều điều phức tạp. 
Đứng thẳng đúng là một nét đặc trưng của con người.
Người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay bị còng lưng đã lâu. 
Mười tám năm không thể nào đứng thẳng lên được (c. 11). 
Lưng bà còng hẳn xuống khiến tầm nhìn của bà bị giới hạn. 
Có lẽ bà chỉ nhìn thấy mảnh đất nhỏ trước mặt hơn là thấy bầu trời cao. 
Bệnh này thật khó chịu, khiến bà đi đứng khó khăn. 
Vậy mà bà vẫn có mặt ở hội đường vào ngày sabát, khi Đức Giêsu giảng. 
Dù bà thấp vì còng lưng, Ngài vẫn trông thấy bà. 
Dù bà chẳng xin gì, Ngài vẫn chủ động gọi để gặp bà (c. 12).
 Đức Giêsu nhìn thấy sự trói buộc do cơn bệnh dai dẳng. 
“Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền.” 
Chữa bệnh chính là đem lại giải thoát cho người phụ nữ. 
Hơn nữa, Đức Giêsu còn đặt tay trên bà như một cử chỉ yêu thương. 
Tức khắc bà còng lưng đã có thể đứng thẳng lên được. 
Điều mơ ước từ mười tám năm, bỗng chốc thành hiện thực. 
Bà có thể nhìn thấy bầu trời và cất lời tôn vinh Đấng ngự trên đó (c. 13). 
Đức Giêsu coi bệnh của bà như một sự trói buộc của Xatan (c. 16). 
Không phải chỉ là trói buộc bằng dây như người ta cột bò lừa (c. 15), 
mà là trói buộc bằng xiềng xích. 
Chính vào ngày sabát, Đức Giêsu đã cởi xiềng xích đó cho bà, 
để bà được tự do, được đứng thẳng như một người bình thường. 
Bà còng lưng bị trói buộc bởi gánh nặng của bệnh tật. 
Nhưng có bao thứ trói buộc khác làm con người mất tự do. 
Như người phụ nữ này, chúng ta muốn và cố làm cho mình đứng thẳng, 
nhưng hoàn toàn bó tay từ nhiều năm qua. 
Có những thứ trói buộc do tác động bên ngoài, 
|nhưng có thứ xiềng xích do chính chúng ta đúc nên để tự giam mình. 
Tôi bị trói buộc bởi lòng ích kỷ, tham vọng, thèm muốn… 
Chúng ta cần thú nhận mình không tự giải thoát mình được, 
không tự đứng thẳng được, không tự cắt đứt những thứ trói buộc mình. 
Chúng ta cần Đức Giêsu đặt tay của Ngài trên đời ta để ta được tự do.
Đâu phải chỉ người phụ nữ còng lưng mới bị trói buộc. 
Tôi cũng bị trói buộc bởi những giá trị mập mờ của thế tục. 
Làm sao để tôi được tự do với cái cell phone tôi đang dùng, 
với những hình ảnh mà tôi tìm kiếm trên internet, 
với lối sống mà ngày nay bao người coi là đáng ước mơ? 
Xin cho tôi không chỉ cúi xuống nhìn thấy miếng đất be bé trước mặt, 
nhưng có thể ngước lên để thấy bầu trời mênh mông trên cao.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

25 thg 10, 2015

Chúa Nhật XXX Thường Niên - Năm B



Tin Mừng Mc 10,46-52

           Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người hành khất mù, tên là Bác-ti-mê, con ông Ti-mê, đang ngồi ở vệ đường. Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!" Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!" Đức Giê-su đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây!" Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!" Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
Sunday XXX in Ordinary Time - Year B
Gospel Mk 10,46-52
As Jesus was leaving Jericho with his disciples and a sizable crowd,
Bartimaeus, a blind man, the son of Timaeus,
sat by the roadside begging.
On hearing that it was Jesus of Nazareth,
he began to cry out and say,
"Jesus, son of David, have pity on me."
And many rebuked him, telling him to be silent.
But he kept calling out all the more,
"Son of David, have pity on me."
Jesus stopped and said, "Call him."
So they called the blind man, saying to him,
"Take courage; get up, Jesus is calling you."
He threw aside his cloak, sprang up, and came to Jesus.
Jesus said to him in reply, "What do you want me to do for you?"
The blind man replied to him, "Master, I want to see."
Jesus told him, "Go your way; your faith has saved you."
Immediately he received his sight
and followed him on the way.

24 thg 10, 2015

Xin thương xót tôi (25.10.2015 – Chúa nhật 30 Thường niên, Năm B)


Lời Chúa: (Mc 10, 46-52)
46 Hôm ấy, Khi Ðức Giêsu cùng với các môn đệ và đám đông dân chúng ra khỏi thành Giêrikhô, thì có một người hành khất mù, tên là Báctimê, con ông Timê, đang ngồi ở vệ đường. 47 Vừa nghe nói đó là Ðức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi!” 48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi!” 49 Ðức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” 50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Ðức Giêsu. 51 Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. 52 Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
Suy Niệm
Con mắt là một bộ phận hết sức mong manh,
dễ bị tổn thương, dễ bị nhiễm trùng,
nhất là trong điều kiện vệ sinh ngày xưa.
Chúng ta không rõ nguyên nhân khiến anh Báctimê bị mù,
chỉ biết anh không mù từ lúc lọt lòng mẹ.
Anh đã từng được thưởng thức ánh nắng ban mai
hay nhìn ngắm những người thân yêu, bè bạn.
Bây giờ chỉ có bóng tối triền miên.
Anh Báctimê sống bằng nghề hành khất,
ngồi ăn xin bên vệ đường, sống bên lề xã hội.
Danh tiếng của Ðức Giêsu Nadarét, anh đã được nghe nhiều.
Ngài có thể làm người mù bẩm sinh sáng mắt.
Anh tin vào Ngài, thầm mong có ngày được gặp.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc hạnh ngộ ấy.
Rất tình cờ, Ðức Giêsu đi ngang qua đời anh.
Anh mù lòa, ngồi đó như chỉ chờ giây phút này.
Khi nghe biết là Ðức Giêsu cùng với đám đông đi qua,
anh thấy cơ may đã đến.
Tất cả sức mạnh của anh nằm ở tiếng kêu,
tiếng kêu thống thiết bi ai của một người đau khổ,
nhưng cũng là tiếng kêu đầy tin tưởng, hy vọng.
“Lạy ông Giêsu, Con vua Ðavít, xin thương xót tôi!”
Tiếng kêu báo hiệu một sự hiện diện, một cầu cứu.
Nhiều người muốn bịt miệng anh,
nhưng anh chẳng sợ gì đe dọa.
Càng bị đe dọa, anh càng gào to hơn nhiều.
Cuối cùng tiếng của anh đã đến tai Ðức Giêsu.
Ngài dừng lại và sai người đi gọi anh,
vì Ngài cũng chưa rõ anh đang ở đâu.
Khi biết mình được gọi, anh vội vã và vui sướng
vất bỏ cái áo choàng vướng víu,
nhẩy cẩng lên mà đến với Ðức Giêsu.
Anh đi như một người đã sáng mắt,
bởi thực ra mắt của lòng anh đã sáng rồi.
Khi được khỏi, lòng tin của anh thêm mạnh mẽ hơn.
Anh thấy lại mặt trời, anh gặp Ðấng cho anh ánh sáng.
Không ngồi ở vệ đường nữa, anh đứng lên đi theo Ðức Giêsu.
“Xin thương xót tôi. Xin cho tôi nhìn thấy lại.”
Ðây có phải là tiếng kêu của tôi không?
Khả năng thấy là một khả năng mỏng dòn.
Ta có thể thấy điều này mà không thấy điều kia.
Tôi có thể lúc thấy lúc không, hay cố ý không muốn thấy.
Lắm khi tôi không đủ sức để ra khỏi sự mù lòa của mình.
Tôi có kêu gào với Chúa để xin được ơn thấy lại không?
Một người mù chữ, dù đã được xóa mù, vẫn có thể mù lại.
Chính vì thế tôi cứ phải xin cho mình được thấy luôn.
Thấy mình bé nhỏ, thấy Chúa bao la, thấy anh em dễ mến.
Thấy là đi vào một con đường dài hun hút.
Chúng ta phải được Chúa xóa mù suốt đời.
Chỉ trong ánh sáng của Chúa, tôi mới nhìn thấy ánh sáng.
Cầu Nguyện
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

23 thg 10, 2015

Tìm trái mà không thấy (24.10.2015 – Thứ bảy Tuần 29 Thường niên)


Lời Chúa: Lc 13, 1-9
(1) Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Ðức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. (2) Ðức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó có tội lỗi hơn hết mọi người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? (3) Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. (4) Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? (5) Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.  (6) Rồi Ðức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, (7) nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” (8) Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. (9) May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Suy nim:
 Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo hai lần (cc. 3, 5).
“Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.”
Đức Giêsu đi từ những chuyện đau thương chết choc
của một số người ở Galilê và Giêrusalem,
để nhắc nhở người nghe ra khỏi sự tự mãn của mình mà sám hối.
Dụ ngôn cây vả sẽ cho thấy thế nào là sám hối theo cái nhìn của Ngài.
Đơn giản sám hối là sinh trái.
Trái là điều ông chủ có ý nhắm đến khi trồng cây vả giữa vườn nho.
Ông không trồng vả để lấy củi hay bóng mát.
Cây vả có chỗ trong khu vườn và cũng có chỗ trong tâm trí ông.
Ông có một người làm vườn.
Hẳn người này đã hết sức chăm bón cho cây vả để nó sinh trái.
Ba năm trôi qua, cứ đến mùa vả, ông chủ lại đến, tìm trái và không thấy.
Những hành vi này được lặp lại như một điệp khúc mỗi năm (cc. 6-7).
Ông chủ đi từ hy vọng đến thất vọng.
Cái háo hức khi lần đầu đến cây tìm trái chẳng còn.
Ông đã kiên nhẫn, đã chờ, không phải một năm, mà ba năm.
“Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất” (c. 7).
Rõ ràng quyết định này không do sự tàn ác hay nóng nảy.
Chặt đi khi chẳng còn gì để hy vọng, khi chờ đợi đã mỏi mòn.
Cây vả đã lấy màu mỡ của đất trồng nho, mà không sinh trái.
Nó không đáp ứng ước mơ tự nhiên của ông chủ,
người đã cho nó hiện hữu ở trong khu vườn này.
“Xin cứ để cho nó lại năm nay nữa” (c. 8).
Lời xin của người làm vườn, người đã chăm sóc cây vả từ nhiều năm.
Người ấy xin cho cây vả một cơ hội,
cơ hội duy nhất và cuối cùng để tránh cái chết chắc chắn.
“Tôi sẽ vun xới, bón phân. May ra sang năm nó có trái…”
Cây vả cằn cỗi vẫn còn được hy vọng, còn được chăm sóc.
Không thấy ông chủ phản đối, chắc ông đồng ý chờ thêm một năm.
Cả ông chủ cũng nuôi lại niềm hy vọng.
Cuối cùng cây vả cằn cỗi này có ra trái không, có bị chặt không?
Dụ ngôn không cho ta câu trả lời.
Vì câu trả lời nằm ở chính tôi.
Tôi chính là cây vả ấy.
Tôi đã được trồng, được yêu, được hy vọng, được chờ, được chăm bón.
Bao điều lớn nhỏ Chúa làm cho đời tôi từ trước đến nay.
Hoa trái của cây vả đời tôi có tương xứng với những gì Chúa ban không?
Tôi suy nghĩ về sự kiên nhẫn của Chúa và cả sự thất vọng của Ngài nữa.
Chúa vẫn muốn cho tôi tiếp tục sống trên đời.
Mỗi ngày sống là quà tặng của lòng thương xót.
Còn sống là còn cơ hội để sinh trái, để bày tỏ lòng sám hối ăn năn.
Dù sao câu kết của người làm vườn tốt bụng vẫn là một đe dọa.
“Nếu không ông cứ chặt nó đi!” (c. 9).
Cầu nguyn:
 Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
 Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
 Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lýđể Chân lý cho con được tự do.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.