31 thg 5, 2016

Thiên Chúa của kẻ sống (1.6.2016 – Thứ tư Tuần 9 Thường niên)


Lời Chúa: Mc 12, 18-27
18 Có những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người:19 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta rằng: “Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.”20 Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng.21 Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy.22 Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết.23 Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.” 24 Đức Giê-su nói: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao?25 Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.26 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp.27 Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to! “
Suy niệm:
Khi được Quí Lộ hỏi về sự chết, 
Đức Khổng Tử đã trả lời : “Vị tri sinh, yên tri tử.”
Sự sống còn chưa biết, sao biết được sự chết (Luận Ngữ, thiên 11, 11).
Nhưng chuyện đời sau vẫn là thao thức muôn thuở của con người.
Con người muốn biết sau cái chết, mình sẽ đi về đâu.
Đi mà không rõ đích đến thì sẽ đi lông bông vô định.
Tiếc là có người đã tin rằng chẳng có gì sau cái chết !
Nhóm Xađốc cũng thuộc hạng người trên.
Họ là những tư tế Do-thái giáo bảo thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới
như chuyện người chết sống lại hay sự hiện hữu của các thiên thần.
Trong Kinh Thánh, họ chỉ dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.
Sách này có nói đến chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),
phải lấy bà vợ góa không con của anh em mình, để có người nối dõi.
Nhóm Xađốc đã đưa ra một trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),
để cho thấy chuyện sống lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.
“Khi sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”
Đức Giêsu đã nặng lời chê các tư tế trong nhóm này (c. 24).
Họ đã hiểu cuộc sống đời sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,
nơi đó người ta vẫn cưới vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái.
Đức Giêsu cho thấy một bộ mặt khác hẳn của đời sau.
Người được sống lại là người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới. 
Họ sống “như các thiên thần trên trời” (c. 25),
nghĩa là sống trọn vẹn cho việc phụng sự Thiên Chúa,
với một thân xác đã được biến đổi nên giống thân xác Đấng phục sinh.
Nhưng đừng hiểu thiên đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người.
“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).
Tình yêu với Thầy Giêsu và những mối dây thân ái giữa người với người, 
chẳng có gì bị phá vỡ, nhưng trở nên hoàn hảo vững bền.
Người ta sẽ không cưới hỏi hay sinh con,
nhưng tình nghĩa vợ chồng được nâng lên một bình diện mới.
Đức Giêsu trưng dẫn sách Xuất hành để minh chứng có sự sống lại.
Thiên Chúa nhận mình là Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).
Mà người Do-thái tin là Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết.
Vậy Abraham, Ixaác và Giacóp phải là những người đang sống,
nghĩa là những người đã chết và đã được phục sinh.
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính.
Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.
Chỉ xin cho vất vả lo toan đời này không làm ta quên đời sau.
LỜI NGUYỆN 
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

30 thg 5, 2016

Maria ở lại độ ba tháng (31.5.2016 – Thứ Ba– Đức Maria thăm viếng Bà Êlisabeth)


Lời Chúa: Lc 1, 39-56
Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabeth. Bà Êlisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được trần đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Bấy giờ bà Maria nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Ðời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời.
Bà Maria ở lại với bà Êlisabeth độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Suy nim:
Từ Nadarét, Chị Maria đã phải đi 160 cây số để đến nhà ông bà Dacaria. 
Ngày nay, người ta cho rằng nhà của ông bà tư tế này là ở En Kerem, 
một ngôi làng nằm trên đồi, vây bọc bởi những cây ô liu và vườn nho, 
cách Giêrusalem 6 cây số về hướng tây. 
Cuộc hành trình vất vả, dài như cuộc hành hương lên Đền Thánh. 
Chị Maria không đi một mình, chắc Chị đi với một người bà con. 
Hơn nữa, chị đi với Giêsu đang lớn lên trong lòng Chị. 
Khi nghe sứ thần nói bà chị họ Êlisabeth già nua đang mang thai, 
Maria thấy mình có bổn phận phải vội vã lên đường. 
Chị muốn đem đến cho bà Êlisabeth sự hiện diện của Chị.
Một sự hiện diện khiêm tốn và lịch sự. 
Chị đã mở lời chào khi vừa bước vào nhà ông bà tư tế Dacaria. 
Chúng ta không rõ Maria đã chào như thế nào, 
nhưng lời chào của Chị đã làm bật dậy nơi bà Êlisabeth 
một chuỗi những âm vang mạnh mẽ và bất ngờ. 
Tai vừa nghe lời chào của cô em Maria, 
Êlisabeth thấy thai nhi trong lòng mình nhảy lên vì vui sướng (cc. 41, 44). 
Lập tức bà được đầy tràn Thánh Thần. 
Thánh Thần đã khiến bà nhận ra những mầu nhiệm lớn lao 
đang diễn ra trong cuộc hạnh ngộ ở đây, vào giây phút này. 
Êlisabeth lớn tiếng ca ngợi Maria là người phụ nữ diễm phúc nhất. 
Maria có phúc vì được chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu độ (c. 42), 
và vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với mình (c. 45). 
Ngỡ ngàng và ngây ngất trong hạnh phúc, Êlisabeth kêu lên : 
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa của tôi đến với tôi thế này?” (c. 43). 
Như thế mầu nhiệm ẩn kín nơi Chị Maria, bà Êlisabeth đã biết. 
Ngược lại, khi thấy bà chị họ của mình mang thai, 
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần đã nói với mình.
Một sự hiện diện mang tính phục vụ. 
Maria đã ở với bà Êlisabeth độ ba tháng để giúp bà trong lúc sinh nở. 
Tất cả những việc trong nhà, hẳn chị Maria đã tận tâm chu tất. 
Khi Chị nhận mình là nữ tỳ của Chúa (Lc 1, 38), 
khi bà Êlisabeth gọi Chị là Mẹ của Chúa tôi (c. 43), 
thì Chị lại trở nên nữ tỳ phục vụ bà chị họ cao niên. 
Sự hiện diện của Chị đem lại cho cả nhà niềm vui và hạnh phúc. 
Giêsu vẫn lớn lên từng ngày trong Chị, và Chị cảm nhận điều đó. 
Lời ca Magnificat chẳng phải chỉ được cất lên một lần. 
Lời ngợi khen ấy thấm nhuần cuộc sống của Chị. 
Mãi mãi Chị là nữ tỳ hèn mọn được Thiên Chúa cúi xuống (c. 48). 
Và Chị biết mình cũng phải cúi xuống để phục vụ tha nhân.
Mọi cuộc gặp gỡ của chúng ta hằng ngày đều có tính linh thánh. 
Trong niềm vui của Thánh Thần, ta vừa cho đi, vừa nhận lãnh, 
vừa ngợi khen Chúa, vừa phục vụ con người. 
Ước gì chúng ta thấy mình lớn lên nhờ dám mở ra để gặp gỡ.
Cầu nguyn:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Tảng đá góc (30.5.2016 – Thứ Hai Tuần 9 Thường niên)


Lời Chúa: Mc 12, 1-12
1 Đức Giê-su bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa.2 Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp.3 Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không.4 Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục.5 Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết.6Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: “Chúng sẽ nể con ta.”7 Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta.”8 Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho.9 Vậy ông chủ vườn nho sẽ làm gì? Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác.10 Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.11 Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta!  12 Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
Suy nim:
Dụ ngôn Đức Giêsu kể trong bài Tin Mừng hôm nay làm ta khó chịu. 
Chúng ta không chấp nhận được sự độc ác của những tá điền, 
những người làm công cho ông chủ, 
và có bổn phận phải nộp hoa lợi vườn nho cho ông khi đến mùa. 
Tại sao họ lại đánh đập người đầy tớ đầu tiên do ông chủ sai đến? 
Tại sao họ lại tiếp tục đánh đập và làm nhục người đầy tớ thứ hai? 
Tại sao họ dám cả gan giết người thứ ba 
và tiếp tục làm như thế với nhiều đầy tớ khác? (cc. 2-5). 
Cuối cùng, ông chủ đã sai đến với các tá điền người con yêu dấu của mình, 
người cuối cùng trong số những người được ông sai. 
Ông nghĩ người con của ông sẽ có đủ uy tín để khiến các tá điền phải vị nể. 
Nhưng đáng thương thay, cậu con thừa tự dấu yêu đã bị bắt, 
bị giết và bị quăng xác ra ngoài vườn nho.
Chúng ta không hiểu được sự độc ác tàn nhẫn của các tá điền. 
Nhưng chúng ta lại càng không hiểu được 
sự cam chịu kiên trì và sự ngây thơ lạ lùng của ông chủ. 
Tại sao ông lại không phản ứng mạnh mẽ ngay từ tội ác đầu tiên? 
Tại sao ông lại thiếu cương quyết khiến cho nhiều đầy tớ, 
và chính con yêu dấu của mình phải chết như vậy?
Dụ ngôn Đức Giêsu kể nhắm vào các nhà lãnh đạo Do thái giáo, 
những thượng tế, kinh sư và kỳ mục (Mc 11,27; 12,12). 
Các đầy tớ trong dụ ngôn là những ngôn sứ đã được sai đến với dân Ítraen. 
Các tá điền chính là những nhà lãnh đạo dân Ítraen từ bao đời. 
Người con yêu dấu chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, 
người đã được Thiên Chúa gọi là Con yêu dấu khi chịu phép rửa 
và khi được biến hình (Mc 1, 11; 9, 7). 
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu báo trước cuộc khổ nạn và cái chết sắp đến 
bởi tay các nhà lãnh đạo đang đứng trước mặt Ngài đây.
Thiên Chúa như ông chủ vườn nho đau khổ, 
có sức chịu đựng vô bờ dù bao lần dân Ítraen quay lưng từ chối. 
Nhưng cuối cùng ông sẽ tiêu diệt các tá điền và giao vườn nho cho người khác. 
Như thế dụ ngôn này vẫn mang nét tươi, 
vì mọi sự không chấm dứt với cái chết của người con. 
Tảng đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc (c. 10). 
Đức Giêsu phục sinh chính là tảng đá góc cho một tòa nhà mới. 
Đó là cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài, 
thuộc cả dân Do thái và dân ngoại.
Cả một lịch sử cứu độ nằm trong một dụ ngôn, mới nhìn có vẻ buồn. 
Nhưng nơi đây ta bắt gặp tình yêu Thiên Chúa làm chủ suốt dòng lịch sử. 
Một tình yêu kiên nhẫn chịu đựng, có vẻ dại dột và ngây thơ. 
Một tình yêu bị bẽ bàng và làm nhục qua cái chết của Người Con yêu dấu. 
Nhưng cuối cùng tình yêu ấy đã chiến thắng vẻ vang nơi sự phục sinh, 
và nơi công trình kỳ diệu là Giáo Hội (c.11).
Cầu nguyn:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhấtcũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụđang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
 

28 thg 5, 2016

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA

Tin Mừng   Lc 9,11b-17

Hôm ấy, Đức Giê-su nói với đám đông về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: "Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng". Đức Giê-su bảo: "Chính anh em hãy cho họ ăn". Các ông đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này". Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một". Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
The Most Holy Body and Blood of Christ

Gospel Lk 9,11b-17

Jesus spoke to the crowds about the kingdom of God,
and he healed those who needed to be cured.
As the day was drawing to a close,
the Twelve approached him and said,
"Dismiss the crowd
so that they can go to the surrounding villages and farms
and find lodging and provisions;
for we are in a deserted place here."
He said to them, "Give them some food yourselves."
They replied, "Five loaves and two fish are all we have,
unless we ourselves go and buy food for all these people."
Now the men there numbered about five thousand.
Then he said to his disciples,
"Have them sit down in groups of about fifty."
They did so and made them all sit down.
Then taking the five loaves and the two fish,
and looking up to heaven,
he said the blessing over them, broke them,
and gave them to the disciples to set before the crowd.
They all ate and were satisfied.
And when the leftover fragments were picked up,
they filled twelve wicker baskets.

NGÀI CẦM BÁNH BẺ RA (29.5.2016 – Chúa nhật 9 Thường niên - Mình và Máu Thánh Chúa Kitô) Lời Chúa: Lc 9, 11b-17


Lời Chúa: Lc 9, 11b-17

Khi ấy, Đức Giêsu tiếp đón dân chúng, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Ðức Giêsu thưa Người rằng: “Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đấy, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng.” Ðức Giêsu bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này.” Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy cho họ ngả lưng thành từng nhóm khoảng năm mươi người một.” Các môn đệ làm y như vậy, và cho mọi người ngả lưng xuống. Bấy giờ Ðức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.

Suy nim:

Ăn uống là chuyện bình thường của mọi sinh vật.
Khi tôi ăn uống, đồ ăn thức uống trở thành tôi.
Tôi sống, tôi hoạt động, tôi lớn lên,
nhờ chút rau xanh, cá tươi, đậu trắng.
Tôi được nuôi bằng trời cao, đất rộng và biển cả.

Từ lâu Ðức Giêsu mang một khát vọng lớn,
đó là nuôi sống linh hồn con người,
nuôi mọi tín hữu thuộc mọi thời đại,
và nuôi họ bằng chính bản thân Ngài,
bằng cái chết và sự sống của Ngài.
Ngài có mắc bệnh hoang tưởng không?
Cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển
cho ta thấy Ðức Giêsu là con người bình thường
khi Ngài cử hành bữa Tiệc Ly tối hôm đó.

Ngài muốn ta tham dự vào cuộc Vượt Qua của Ngài,
Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho ta;
thành đồ ăn bằng cách biến tấm bánh thành Thịt Mình Ngài,
thành thức uống bằng cách biến rượu nho thành Máu Ngài.
Như thế ai ăn Tấm Bánh và uống Chén Rượu
đã được Ngài biến đổi nhờ quyền năng Thánh Thần,
người ấy nên một với Ngài.
Không phải Ngài trở thành người ấy,
cho bằng người ấy trở thành Ngài.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”

Mỗi thánh lễ là một lần nhớ đến và làm sống lại
hy tế duy nhất năm xưa trên Núi Sọ.
Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến của Tình Yêu.
Tình Yêu luôn có nhiều sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu.
Cần ngắm nhìn cử chỉ bẻ bánh của Ðức Giêsu,
Tấm bánh trở thành Tấm Thân Ngài
được bẻ ra và trao hiến trên thập giá.

Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Ðức Giêsu đã bẻ bánh để môn đệ phát cho dân.
Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên mãi.
“Anh em hãy cho họ ăn đi.”
Như các môn đệ, chúng ta cũng lúng túng và bất lực
trước cơn đói của con người hôm nay,
đói cơm bánh, đói tình thương, đói được tôn trọng.

Nếu chúng ta dám trao cho Ðức Giêsu
tất cả những gì chúng ta có, dù chỉ là nhỏ nhoi;
nếu chúng ta chịu để cho Ngài bẻ ra,
và làm vỡ tan mọi tính toán ích kỷ,
thì chúng ta có thể nuôi được cả thế giới.
Thỉnh thoảng bạn nên cầu nguyện trước Thánh Thể.
Bạn có thể học được nhiều điều.

Con Thiên Chúa vinh quang rất mực,
lại khiêm tốn hiện diện dưới dạng tấm bánh
mong manh, lặng lẽ, đơn sơ.
Tấm bánh không biết nói, không sống cho mình.
Tấm bánh hiện diện là để cho người ta thưởng thức,
và tan biến ngay sau khi được hưởng dùng.
Chúng ta có thể bắt chước
lối hiện diện ấy của Chúa Giêsu Thánh Thể không?

Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.

Con mong sự hiện diện ấy lan toả khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...

Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

27 thg 5, 2016

Chúng tôi không biết (28.5.2016 – Thứ bảy Tuần 8 Thường niên)


Lời Chúa: Mc 11, 27-33

Khi ấy, Ðức Giêsu và các môn đệ lại vào Giêrusalem. Người đang đi trong Ðền Thờ, thì các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? hay ai đã cho ông quyền đó để ông làm các điều ấy?” Ðức Giêsu đáp: “Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi. Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gioan là do Trời hay do người ta? Các ông trả lời cho tôi đi!” Họ bàn với nhau: “Nếu mình nói: ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại: ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy?’ Nhưng chẳng lẽ mình nói: ‘Do người ta’?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan thật là một ngôn sứ. Họ mới trả lời Ðức Giêsu: “Chúng tôi không biết.” Ðức Giêsu liền bảo họ: “Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”

Suy niệm:

“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy

hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” (c. 28).

Ba giới chức cao nhất của Do Thái giáo

đã đặt câu hỏi như vậy với Đức Giêsu khi Ngài đi đi lại lại

trong Đền Thờ Giêrusalem vào những ngày cuối đời.

Ông lấy quyền nào mà dám đuổi những kẻ buôn bán ở đây?

Ông lấy quyền nào mà lật bàn của những người đổi tiền,

và xô đổ ghế của những người bán bồ câu? (c. 15).


Tất cả những người làm chuyện buôn bán

đều nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của Đền Thờ.

Nếu không cho buôn bán ở đây thì người dân lấy gì mà dâng cúng?

Có phải ông định phá hoại các sinh hoạt ở Đền Thờ không?

Tại sao ông dám nói nơi Thánh này đã trở nên hang ổ của bọn cướp ?

Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục muốn giết Đức Giêsu (c. 18).

Họ nghiêm chỉnh đến gặp Ngài và đòi Ngài phải trả lời câu hỏi của họ.

Họ muốn biết người nào đã cho Đức Giêsu quyền đó.


Đức Giêsu dùng phương pháp của các rabbi,

trả lời một câu hỏi bằng cách đặt ngược một câu hỏi khác.

“Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi.

Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết

tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy” (c. 29).

Ngài đặt cho họ câu hỏi về nguồn gốc của phép rửa bởi Gioan:

“Phép rửa của ông Gioan là do Thiên Chúa hay do loài người?” (c. 30).


Câu hỏi tưởng như đơn giản này lập tức đưa họ vào thế kẹt.

Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi Thiên Chúa

thì họ sẽ bị tố cáo vì đã không tin vào lời giảng của Gioan.

Hơn nữa khi tin vào Gioan, họ cũng phải tin vào Đức Giêsu,

Đấng đã được Gioan hết lòng khiêm cung làm chứng.

Nếu trả lời phép rửa của Gioan là bởi loài người

thì họ sẽ vấp phải sự chống đối từ phía dân chúng,

vì họ tin Gioan là một vị ngôn sứ đích thực.


Như thế câu hỏi của Đức Giêsu đã đưa họ vào thế tiến thoái lưỡng nan.

Câu hỏi của Ngài dồn họ vào thế phải trả lời:

“Chúng tôi không biết.” (c. 33).

Có thật họ không biết hay chỉ là né tránh sự thật?

Họ đã không tin Gioan, vì sợ tin Gioan sẽ phải tin cả Giêsu nữa.

Nhưng họ lại sợ không dám nói ra điều đó cho dân chúng biết.

Nỗi sợ bị mất uy tín, mất chỗ đứng, khiến họ trở nên câm lặng.


Câu hỏi của Đức Giê su đòi họ trở về với lòng mình

để tự tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi của họ: “Ông lấy quyền nào?”

Quyền của Đức Giêsu là quyền năng của Thánh Thần Thiên Chúa.

Làm thế nào để chúng ta thoát khỏi thành kiến và nỗi sợ hãi

để có được sự tự do khi trao đổi với nhau?

Làm thế nào để chúng ta không tìm cách tránh né sự thật,

dù chấp nhận sự thật đòi chúng ta phải thay đổi tận căn và trả giá?

Làm thế nào để chúng ta can đảm nhận mình sai để lại bắt đầu?

Cầu nguyện:


Lạy Cha,

xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.


Xin cho chúng con đến với nhau

không chút thành kiến,

và tin tưởng vào thiện chí của nhau.


Khi cộng tác với nhau,

xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

nhờ đó chúng con vượt qua

những tự ái nhỏ nhen,

những tham vọng ích kỷ

và những định kiến cằn cỗi.


Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

để tìm kiếm chân lý

ở mọi nơi và mọi người,

nhất là nơi những ai khác quan điểm.


Lạy Cha,

xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.


Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

xin cho chúng con được triển nở không ngừng

và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

26 thg 5, 2016

Nhà cầu nguyện của mọi dân tộc (27.5.2016 – Thứ sáu Tuần 8 Thường niên)


Lời Chúa: Mc 11, 11-26
Khi ấy, Ðức Giêsu vào Giêrusalem và đi vào Ðền Thờ. Người rảo mắt, nhìn xem mọi sự, và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai.  Hôm sau, khi thầy trò rời khỏi Bêtania, thì Ðức Giêsu cảm thấy đói. Trông thấy ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì không phải là mùa vả. Người lên tiếng bảo cây vả: “Ðời đời không còn ai ăn trái của mày nữa!” Các môn đệ đã nghe Người nói thế.
Thầy trò đến Giêrusalem. Ðức Giêsu vào Ðền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang mua bán trong Ðền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Người không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Ðền Thờ. Người giảng dạy và nói với họ: “Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện dành cho mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!” Các thượng tế và kinh sư nghe thấy vậy, thì tìm cách giết Ðức Giêsu. Quả thế, họ sợ Người, vì cả đám đông đều rất ngạc nhiên về lời giảng dạy của Người. Chiều đến, Ðức Giêsu và các môn đệ ra khỏi thành.
Sáng sớm, khi đi ngang cây vả, các ngài thấy nó đã chết khô tận rễ. Ông Phêrô sực nhớ lại, liền thưa Ðức Giêsu: “Kìa Thầy xem: cây vả Thầy rủa đã chết khô rồi!” Ðức Giêsu nói với các ông: “Anh em hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: ‘Dời chỗ đi, nhào xuống biển!’, mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì điều ấy sẽ được ban cho. Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu nguyện và xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý. Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Ðấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Ðấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.”
Suy nim:
Khi thánh sử Máccô viết đoạn Tin Mừng này,
thì có thể Đền thờ ở Giêrusalem đã bị phá hủy bởi quân Rôma.
Ngôi đền thờ nguy nga này được vua Hêrôđê Cả trùng tu và nới rộng,
mất 84 năm mới hoàn thành, để rồi chỉ tồn tại được vỏn vẹn 6 năm.
Đức Giêsu đã lên Đền thờ này nhiều lần, vào các dịp lễ lớn.
Đây là lần cuối Ngài lên đây giữa tiếng tung hô của đám đông. 
Khi chiều tà, Ngài và các môn đệ qua đêm ở làng Bêtania gần đó.
Hôm sau, trên đường từ Bêtania trở lại Đền thờ, Ngài thấy đói.
Trông thấy từ xa một cây vả xanh tốt, Ngài lại gần để tìm trái ăn.
Nhưng tiếc thay cây này chỉ có lá thôi, vì chưa đến mùa vả.
Vậy mà Đức Giêsu lại có vẻ nổi giận,
và nói: “Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa!”
Buổi sáng hôm sau, Thầy trò lại lên Đền thờ, đi ngang qua cây vả.
Mọi người thấy nó chết rồi, “chết khô tận rễ” (c. 20).
Phêrô cho rằng cây vả chết vì bị Thầy rủa (c. 21).
Chúng ta không hiểu tại sao Đức Giêsu lại rủa cây vả cho nó chết.
Nó có tội tình gì đâu, chỉ tại chưa đến mùa đó thôi!
Thánh sử Máccô đã đặt chuyện Đức Giêsu thanh tẩy Đền thờ
vào ngay giữa câu chuyện đầy kịch tính về cây vả.
Điều đó khiến chúng ta không hiểu chuyện cây vả theo nghĩa đen.
Đúng là cây vả chẳng mắc tội gì khi chưa đến mùa có trái.
Nhưng khi các nhà lãnh đạo Do Thái giáo cố ý từ khước Đức Giêsu,
thì họ mắc tội, như cây vả không trái.
Rốt cuộc cả họ và Đền thờ phải chịu số phận như cây vả héo khô.
Khi vào khu vực Đền thờ, Đức Giêsu giận dữ với chuyện buôn bán,
dù đây là chuyện buôn bán được phép,
ở một khu vực được phép, để phục vụ cho việc thờ tự.
Đức Giêsu đã làm một hành động rất khác thường,
đó là đuổi người buôn bán, lật bàn, xô ghế của họ (c. 15).
Thậm chí Ngài còn cấm người ta mang đồ đi qua Đền thờ (c. 16).
Chắc đã xảy ra một cuộc xô xát nhỏ, trong một thời gian ngắn.
Ngài hành động như người có quyền ở nơi thờ tự này.
Điều đó khiến các nhà lãnh đạo tôn giáo tìm cách giết Đức Giêsu.
Đối với Đức Giêsu, ngôi Đền thờ tráng lệ ở Giêrusalem 
không còn là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc nữa (Is 56,7).
Vì giới lãnh đạo, nó đã không đạt mục tiêu Thiên Chúa muốn. 
Như cây vả xanh lá, nhưng không trái, nó sẽ bị héo khô.
Ngày nay, dấu tích còn lại của ngôi Đền thờ xưa chỉ là một bức tường,
nơi người Do Thái đến than khóc.
Bài Tin Mừng hôm nay không gây sự thù ghét đối với người Do Thái. 
Đúng hơn đây là một nhắc nhở nghiêm chỉnh của Đức Giêsu
đối với mọi đền thờ, nhà thờ của các Kitô hữu.
Phải làm sao để nơi thờ tự không trở thành nơi buôn bán kinh doanh.
Phải làm sao để nhà thờ thực sự là nơi cầu nguyện cho mọi người,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, quê mùa hay trí thức.
Phải làm sao để các ngôi thánh đường ngày nay của chúng ta
khỏi rơi vào số phận của Đền thờ Giêrusalem ngày xưa,
xanh lá nhưng không trái, nên bị chết khô.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.