30 thg 6, 2016

Đứng dậy đi theo (1.7.2016 – Thứ sáu Tuần 13 Thường niên)


Lời Chúa: Mt 9, 9-13
Khi ấy, Ðức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Matthêu đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người. Ðức Giêsu đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy, những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” Nghe như thế, Ðức Giêsu nói: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
Suy nim:
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc. 
Người thì đang quăng lưới ngoài khơi, 
Khi Thầy gọi Mátthêu, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.
Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình, 
dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.
Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!” 
Mátthêu không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động. 
Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy. 
Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh. 
Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết. 
Mátthêu nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3). 
Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm. 
Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện, 
nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải. 
Mátthêu có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không? 
Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không? 
Trong nhóm Mười Hai, Mát thêu có chỗ đứng đặc biệt,
người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng. 
Mátthêu làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt, 
vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng. 
Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân, 
đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.
Khi trở nên môn đệ của Thầy, Mátthêu đã trở nên người phục vụ đồng bào. 
Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng. 
Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia. 
Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi! 
Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước. 
Mátthêu đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được. 
Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông. 
Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay, 
nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới, 
để thế giới nghe và hiểu được. 
Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay, 
phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại. 
Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ? 
Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt, 
nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12). 
Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì ? 
Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không? 
Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy 
Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc. 
Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu, 
dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm :rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừngvới niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năngđẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệcủa bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

29 thg 6, 2016

Thấy họ có lòng tin (30.6.2016 – Thứ năm Tuần 13 Thường niên)



Lời Chúa: Mt 9, 1-8
1 Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình.2 Người ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi! “3Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: “Ông này nói phạm thượng.”4Nhưng Đức Giê-su biết ý nghĩ của họ, liền nói: “Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy?5 Trong hai điều: một là bảo: “Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo: “Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn?6 Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội – bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại liệt: “Đứng dậy, vác giường đi về nhà! “7 Người bại liệt đứng dậy, đi về nhà.8 Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người được quyền năng như thế.
Suy niệm
Khiêng một người bất toại trên một cái giường là điều không dễ.
Chẳng biết có mấy người khiêng và khiêng bao xa ?
Chẳng rõ tương quan giữa họ ra sao, có phải là bạn bè, họ hàng không ?
Có điều chắc là anh bất toại không thể tự mình đến với Thầy Giêsu được.
Chân của anh có vấn đề, và thời ấy không có xe lăn như bây giờ.
Anh cần đến sự giúp đỡ của bạn bè quen biết.
Và đã có những người đáp lại vì tình thương đối với anh chịu tật nguyền.
Rồi đã có một cuộc hẹn, và sau đó cả nhóm lên đường.
Tình bạn làm cho đường đến nhà của Thầy Giêsu ở Caphácnaum gần hơn.
Nhưng vất vả, nhọc nhằn thì vẫn không tránh được.
Đưa người bất toại đến với Thầy Giêsu quả là một kỳ công,
vì trong Tin Mừng theo thánh Máccô, họ đã phải đưa người bệnh xuống
qua một lỗ thủng ở trên mái nhà, bởi lẽ không có đường nào khác ! (Mc 2, 4).
Dù sao Thầy Giêsu cũng đã thấy lòng tin của họ (c. 2).
Lòng tin là cái bên trong, nhưng được lộ ra ngoài.
Cả người bất toại lẫn các người khiêng đều có chung một lòng tin.
Tin rằng đến với Thầy Giêsu là thế nào cũng được khỏi.
Họ nuôi một niềm hy vọng lớn : khi trở về không phải khiêng nhau nữa.
Anh bất toại có thể đi được bằng đôi chân của chính mình,
và đi ngang hàng với những người bạn khác.
Tin, yêu và hy vọng là những tâm tình có trong tim của nhóm bạn này.
Không có những điều đó thì cũng chẳng có phép lạ khỏi bệnh.
Ơn Thiên Chúa vẫn đến với con người ngang qua lòng tốt của con người.
Nhưng lạ thay Thầy Giêsu lại có vẻ không màng đến chuyện chữa bệnh.
Thầy nói với người bất toại: “Các tội của anh được tha thứ” (c. 2).
Ơn đầu tiên người bất toại nhận được là một ơn mà anh không xin,
ơn đó không phải nơi thân xác, nhưng nơi linh hồn.
Hẳn Thầy Giêsu không có ý nói rằng anh bị tật là vì đã phạm tội.
Nhưng Ngài muốn cho thấy uy quyền của lời Ngài nói.
Lời này có thể tha tội và lời này cũng có thể chữa lành.
Nếu các kinh sư nghĩ rằng Ngài đã nói phạm thượng (c. 3),
dám tiếm quyền tha tội dành cho một mình Thiên Chúa,
thì Ngài sẽ chứng tỏ cho họ thấy Ngài có quyền tha tội dưới đất.
Ngài bảo anh bất toại : “Đứng dậy, vác chõng mà đi về nhà” (c. 6).
Ngài đã không chọn điều dễ hơn (c. 5), điều khó kiểm chứng.
Anh bất toại đã đứng dậy và đi về nhà cùng với các bạn của anh.
Anh đã được hơn cả điều anh mong ước, đó là hồn an xác mạnh.
Đức Giêsu có quyền giải phóng ta khỏi bệnh tật và tội lỗi.
Tội lỗi cũng làm ta bất toại, không đến được với Thiên Chúa và tha nhân.
Nhưng Đức Giêsu đã muốn chia sẻ quyền này cho “loài người” (c. 8).
Môn đệ của Ngài vẫn làm thừa tác vụ chữa lành và tha tội cho đến tận thế.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã giúp cho bao người què đi được trên đôi chân của mình.
Chúa đã làm cho người bất toại
nằm chờ đợi nhiều năm bên hồ nước
bất ngờ chỗi dậy, vác chõng và bước đi.
Chúa đã làm cho người bất toại
mà bạn bè vất vả đưa xuống từ lỗ hổng của mái nhà,
được khỏi bệnh, lòng bình an vì được tha thứ.
Chúa đã cho kẻ bại tay được đưa tay ra
và tay anh trở lại bình thường.
Bất toại trên thân xác thật là điều đáng sợ.
Nhưng đáng sợ hơn là thứ bất toại của tâm hồn.
Có thứ bất toại làm chúng con không đến được với người khác,
dù nhà họ ở kế bên nhà chúng con,
không đến được với Chúa, dù Chúa vẫn luôn chờ đợi.
Có thứ bất toại làm chúng con không thể đưa tay ra
để bắt tay người đối diện hay để chia sẻ một món quà.
Có thứ bất toại làm trái tim chúng con khô cứng,
hững hờ trước nỗi đau của người anh em.
Xin giúp chúng con ra khỏi
những thành kiến và mặc cảm, thù oán và ghen tương,
để chuyển động mềm mại hơn dưới sự tác động của Chúa.
Xin cũng giúp chúng con biết khiêm tốn
nhìn nhận sự bại liệt của mình,
và chấp nhận để người khác đưa mình đến gặp Chúa.
Lm . Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

28 thg 6, 2016

Anh là tảng đá (29.6.2016 – Thứ Tư – Lễ thánh Phêrô và thánh Phaolô, tông đồ)


Lời Chúa: Mt 16, 13-19
13 Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai? “14 Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.”15 Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? “16 Ông Si-môn Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.”17 Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.”
Suy nim:
Trong ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô,
chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt,
rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình.
Ông theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ.
Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào,
về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh.
Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu khi Ngài còn sống.
Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng.
Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi.
Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con.
Phaolô được gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamát.
Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài.
Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp.
Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang.
Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã.
Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô,
trong một phút giây quá tự tin vào sức mình.
Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô,
trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai.
Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.
Phêrô và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách nồng nhiệt,
vì họ cảm nhận sâu xa mình được Ngài yêu.
“Này anh Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,16)
Cả Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống,
vì Ngài là “Con Thiên Chúa,
Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20)
Phaolô đã không ngần ngại khẳng định:
Không gì có thể tách được chúng ta
ra khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô (x. Rm 8, 35.39)
Tình yêu Ðức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo,
vì nói cho cùng truyền giáo chính là
giúp người khác nhận ra và yêu mến
Ðấng đã yêu tôi và yêu cả nhân loại.
Cả hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng,
bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau.
Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40)
Còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28).
“Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu” (Gl 6, 1-7)
Cả hai vị đã chết như Thầy.
Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18).
Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng,
và đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới,
dám bỏ, dám theo và dám yêu
dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng.
Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

27 thg 6, 2016

Người vẫn ngủ (28.6.2016 – Thứ Ba tuần 13 thường niên)


Lời Chúa: Mt 8, 23-27
(23) Ðức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, (24) và kìa biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. (25) Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!” (26) Ðức Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ.(27) Các ông ngạc nhiên và nói: “Người này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Suy niệm:
Nếu mức nước biển dâng lên thêm một mét do nạn toàn cầu ấm lên, 
nhiều vùng đất của nước Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt nước.            
Bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, vẫn là những thảm họa cho con người. 
Ngày nay người ta biết rằng phần lớn thiên tai không do Trời,
nhưng do con người phá hoại trái đất là công trình tốt đẹp của Trời cao.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Đức Giêsu,
không phải trên ma quỷ hay bệnh tật, nhưng trên thiên nhiên.
Ngài đã dùng quyền đó để bảo vệ các môn đệ khỏi bị dập vùi bởi sóng gió.
Thầy Giêsu đã ra lệnh cho họ qua bên kia hồ (Mt 8, 18).
Ngài xuống thuyền trước, các môn đệ theo sau (c. 23).
Đi theo Thầy Giêsu, trên cùng một con thuyền, đâu hẳn được bình an.
Cơn bão lớn ngoài biển đến thật bất ngờ, 
khiến con thuyền của Thầy trò chao đảo vì sóng gió.
Giữa cơn cuồng nộ của biển cả, giữa sự kinh hoàng nhốn nháo của các môn đệ,
Thầy Giêsu vẫn ngủ yên.
Dường như chẳng có gì khuấy động được giấc ngủ bình an của Thầy.
“Thưa Ngài, xin cứu, chúng con chết mất” (c. 25).
Lời đánh thức vội vã, hối thúc, khi cái chết đã gần kề.
Nhưng Thầy Giêsu lại chẳng có vẻ gì vội vã.
Giữa tiếng thét gào của sóng gió và sự chòng chành của con thuyền,
Thầy Giêsu đã quở trách các môn đệ vì sự cuống cuồng sợ hãi của họ,
hậu quả của việc thiếu lòng tin (c. 26).
Thầy đã không làm cho biển lặng sóng yên ngay lập tức,
vì tập bình an giữa sóng gió là điều khó và cần hơn nhiều.
Lắm khi chúng ta không hiểu tại sao thuyền đời chúng ta gặp bão, 
dù có Thầy trong thuyền, dù chúng ta đã theo Thầy nghiêm túc.
Chúng ta lại càng không hiểu tại sao Thầy có thể ngủ được bình an,
khi chúng ta gặp muôn vàn thử thách và rơi vào tuyệt vọng.
Nhưng Thầy Giêsu cũng không hiểu tại sao chúng ta lại sợ đến thế (c. 26).
Tại sao chúng ta lại sợ thuyền chìm hay sợ chết ?
Nếu có đức tin vào Thầy thì sóng gió đâu nhận chìm được chúng ta.
“Thiên Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu.
Đừng ngại đánh thức Ngài và kêu cứu.
Đừng ngại la to át tiếng sóng, để làm cho Ngài nghe được.
Nhưng cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.
Không hẳn là Ngài sẽ trỗi dậy ngay và dẹp tan bão tố.
Không hẳn là chúng ta sẽ được giải thoát ngay khỏi mọi nỗi hiểm nghèo.
Điều quan trọng là lòng ta được bình an,
vì biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời ta.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
 Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Ði trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
 Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
 
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Không chỗ tựa đầu (27.6.2016 – Thứ hai Tuần 13 Thường niên)


Lời Chúa: Mt 8, 18-22
18 Thấy xung quanh có đám đông, Đức Giê-su ra lệnh sang bờ bên kia.19 Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.”20 Đức Giê-su trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”21 Một môn đệ khác thưa với Người: “Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.”22 Đức Giê-su bảo: “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”
Suy nim:
“Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo.”
Đó là lời yêu cầu của một vị kinh sư đáng kính, thông thạo Thánh Kinh.
Vị này gọi Đức Giêsu là Thầy, dù chính ông là một bậc thầy trong dân.
Tại sao ông lại muốn đi theo Đức Giêsu, một ông thợ mộc ở Nadarét ?
Tại sao một người có sự nghiệp ổn định như ông
lại chịu hạ mình làm môn đệ của Ngài ?
Tại sao ông lại muốn theo Ngài đến tận chân trời góc biển ?
Điều gì nơi con người Đức Giêsu đã khiến ông quyết định như thế ?
Điều gì nơi Ngài đã cuốn hút con người ông
đến độ ông không muốn xa Ngài nữa,
và muốn gắn bó đời mình với Ngài ?
Chúng ta không có câu trả lời cho các câu hỏi đó.
Chúng ta chỉ nghe câu trả lời của Đức Giêsu cho vị kinh sư.
“Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Ngài nhắc cho ông biết cái giá phải trả
để đi theo Ngài làm môn đệ.
Đó là cuộc sống bấp bênh, lang thang, nay đây mai đó.
Trên bước đường rao giảng, Đức Giêsu sống như kẻ vô gia cư.
Ngài tạm trú ở nơi nhà của người mở lòng đón nhận.
Chẳng rõ sau câu trả lời thẳng thắn của Đức Giêsu,
vị kinh sư có còn muốn theo Ngài nữa không ?
Khi một môn đệ của Đức Giêsu xin phép về chôn cất cha trước đã,
thì Ngài đã trả lời bằng một câu khó hiểu :
“Anh hãy đi theo tôi. Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”
Người Do-thái coi trọng chữ hiếu và việc tống táng cho cha mẹ.
Có thể ở đây anh môn đệ này muốn xin về nhà,
ở với cha già cho đến ngày cha qua đời, rồi chôn cất cha để báo hiếu.
Không phải là anh không muốn làm môn đệ Thầy Giêsu nữa,
nhưng trước hết, anh muốn làm tròn bổn phận của một người con.
Đức Giêsu cho anh thấy báo hiếu không phải là bổn phận hàng đầu,
dù tôn kính cha mẹ là luật quan trọng trong xã hội Do-thái.
Ngài cho anh thấy có Ai đó còn quan trọng hơn cả cha mẹ.
“Hãy theo tôi”, tiếng gọi này đòi dành ưu tiên cho Ngài,
đến độ nghĩa vụ thiêng liêng nhất là chôn cất cha phải nhường bước.
Tin Mừng hôm nay cho thấy cái giá phải trả để làm môn đệ Đức Giêsu.
Có người xin đi theo Thầy khắp mọi nơi Thầy đi.
Nhưng đi vào Vườn Dầu, đi lên Núi Sọ, ít người dám theo Thầy.
Có người đã là môn đệ rồi, nhưng lại băn khoăn vì nghĩa vụ.
Anh phải nghe được tiếng gọi mới của Thầy: “Hãy theo tôi” (c. 22).
và đơn sơ đặt sứ mạng lên trên hết.
Thân phận người môn đệ xưa nay đều giống nhau.
Theo Thầy là phải chịu long đong, thiếu thốn, bị từ chối và bách hại,
thậm chí phải chấp nhận cái chết.
Nhưng hạnh phúc vẫn chờ họ, chỉ vì họ đã cùng thân phận với Thầy.

Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
Chọn những cầu thủ bóng đá,
Những tài tử điện ảnh
Làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
Và chúng con thật sự đắn đo
Trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
Chọn Chúa là lội ngược dòng,
Theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
Con đường nghèo khó và khiêm nhu,
Con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
Không phải vì Chúa giàu có,
Tài năng hay nổi tiếng,
Nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
Nhiều lần trong ngày,
Qua những chọn lựa nhỏ bé,
Để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
Và để chúng con
Thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
 

25 thg 6, 2016

Chúa Nhật XIII Thường Niên - Năm C

Tin Mừng Lc 9,51-62
           

Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác. Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” Đức Giê-su nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
Sunday XIII in Ordinary Time - YearC
Gospel Lk 9,51-62 
When the days for Jesus’ being taken up were fulfilled,
he resolutely determined to journey to Jerusalem,
and he sent messengers ahead of him.
On the way they entered a Samaritan village
to prepare for his reception there,
but they would not welcome him
because the destination of his journey was Jerusalem.
When the disciples James and John saw this they asked,
“Lord, do you want us to call down fire from heaven
to consume them?”
Jesus turned and rebuked them, and they journeyed to another village.

As they were proceeding on their journey someone said to him,
“I will follow you wherever you go.”
Jesus answered him,
“Foxes have dens and birds of the sky have nests,
but the Son of Man has nowhere to rest his head.”

And to another he said, “Follow me.”
But he replied, “Lord, let me go first and bury my father.”
But he answered him, “Let the dead bury their dead.
But you, go and proclaim the kingdom of God.”
And another said, “I will follow you, Lord,
but first let me say farewell to my family at home.”
To him Jesus said, “No one who sets a hand to the plow
and looks to what was left behind is fit for the kingdom of God.”

Từ phương đông phương Tây (25.6.2016 – Thứ bảy Tuần 12 Thường niên)


Lời Chúa:  Mt 8, 5-17
5 Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin:6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.”7 Người nói: “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp:8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh.9 Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: “Đi! “, là nó đi, bảo người kia: “Đến! “, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này! “, là nó làm.”10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế.11 Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.12 Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”13 Rồi Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng rằng: “Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy! ” Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh.14 Đức Giê-su đến nhà ông Phê-rô, thấy bà mẹ vợ ông đang nằm liệt và lên cơn sốt.15 Người đụng vào tay bà, cơn sốt dứt ngay và bà chỗi dậy phục vụ Người.
16 Chiều đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giê-su. Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau,17 để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta.
Suy nim:
Đức Giêsu mới chữa cho một người phong bằng một tiếp xúc gần,
nay Ngài lại chữa lành cho một người bị đau liệt ở xa.
Người được khỏi chính là đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng.
Con người sống gắn bó với nhau bằng những mối dây.
Viên đại đội trưởng là chủ, nhưng ông cảm được nỗi đau của anh đầy tớ:
“Đầy tớ của tôi bị liệt nằm ở nhà, đau đớn kinh khủng” (c. 6).
Người đầy tớ được khỏi là nhờ tình thương của chủ đối với anh,
chính ông đã đi gặp Đức Giêsu và xin Ngài chữa cho anh đầy tớ (c. 5).
Và chính lòng tin của ông đối với Đức Giêsu đã khiến anh được khỏi (c. 10).
Những điều tốt lành của Thiên Chúa vẫn đến với ta qua người khác.
Khi Đức Giêsu nghe lời kêu xin, thì Ngài sẵn sàng lên đường ngay (c. 7),
dù biết rằng nhà của viên đại đội trưởng là nhà dân ngoại, bị coi là ô uế.
Có thể vì sợ Ngài bị ô uế mà ông ta đã can ngăn bằng câu nói nổi tiếng :
“Tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời,
đầy tớ tôi sẽ được khỏi bệnh” (c. 8).
Ông ý thức về sự bất xứng của mình, của căn nhà mình ở.
Và ông xác tín vào sức mạnh của việc “Ngài chỉ nói một lời.”
Viên đại đội trưởng nhận mình là người có quyền.
Uy quyền của ông nằm trong lời ông ra lệnh cho cấp dưới (c. 9).
Ông tin lời của Đức Giêsu cũng có uy quyền như vậy.
Chỉ một lời ra lệnh của Ngài cũng đủ đẩy lui bệnh tật và thần dữ.
Đức Giêsu ngây ngất trước lòng tin của viên sĩ quan dân ngoại,
một lòng tin vừa mạnh mẽ, vừa khiêm tốn.
Một lòng tin như thế, Ngài chưa từng gặp nơi dân Ítraen (c. 10).
Đức Giêsu nghĩ đến ngày cánh chung, quanh bàn tiệc Nước Trời,
có bao người đến từ muôn phương, những kẻ không phải là người Do thái.
Họ làm nên một cộng đoàn mới gồm những kẻ tin vào Ngài.
Họ vui sướng được ngồi bên các tổ phụ và những người Ítraen chân chính.
Đức Giêsu cho thấy dòng lịch sử đang đi vào ngã rẽ quan trọng.
Ơn cứu độ phổ quát do Ngài đem lại được mở ra cho mọi người.
Chỉ ai cố tình chối từ Tin Mừng Nước Trời mới bị loại (c. 12).
Đức Giêsu không chỉ rao giảng Nước Trời bằng lời.
Ngài còn chứng minh Nước Trời đã đến bằng bao việc tốt lành, kỳ diệu.
Lời Ngài giảng cũng là lời chữa cho người phong, cho tên đầy tớ.
“Ngài nói một lời là trừ được các thần dữ” (c. 16).
Lời uy quyền khi giảng cũng là lời uy quyền khi chữa bệnh.
Nhưng Đức Giêsu cũng đụng chạm đến nỗi đau của con người.
Ngài đụng đến người phong, và đụng đến bàn tay mẹ vợ ông Phêrô (c. 15).
Hôm nay, Giáo Hội vẫn cần những người rao giảng như Giêsu.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa
và dạy con bước đi
ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.
Xin truyền cho con sức mạnh của Người.
Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con
tìm lại được sức trẻ
để gieo trồng hàng ngàn cây xanh
cho một thế giới mới
Ước gì mồ hôi con
pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.
Ước gì máu con
hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ
để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn
vì bất công và ích kỷ.
Chúc tụng Chúa là Cha,
đã dẫn con đi đến cùng,
đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung
với tràn trề bình an và niềm vui.
ĐHY Roger Etchegaray
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

23 thg 6, 2016

Em này rồi sẽ ra sao (24.6.2016 – Thứ Sáu, Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả)


Lời Chúa  (Lc 1, 57-66.80)
(57) Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai. (58) Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.  (59) Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. (60) Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. (61) Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”. (62)Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. (63) Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan”. Ai nấy đều bỡ ngỡ. (64) Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. (65) Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. (66) Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Ðứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật có bàn tay Chúa phù hộ em.
(80) Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen.
 Suy niệm
Giới trẻ ngày nay xem ra thích mừng sinh nhật hơn mừng lễ bổn mạng.
Ngày vui ấy thường đi với quà, tiệc mừng và những lời cầu chúc.
Thật ra mừng sinh nhật có thể là một hành vi mang nhiều tính tôn giáo.
Tôi nhớ đến ngày tôi được sinh ra,
một sinh linh bé nhỏ chào đời, 
mang hình ảnh của Thiên Chúa, mang khuôn mặt của Đức Giêsu.
Ngày ấy quan trọng và đáng nhớ ngay cả đối với chính Thiên Chúa.
Dù thế giới có hơn 6,7 tỷ người thì một hài nhi mới sinh 
cũng có một chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa.
Thiên Chúa có những ước mơ và dự tính riêng về từng con người.
Chẳng ai chào đời một cách tình cờ và ngẫu nhiên.
Mỗi người đều cần cho kế hoạch lớn của Thiên Chúa.
Mừng sinh nhật một cách nghiêm túc lại trở thành một lễ tạ ơn.
Tạ ơn Chúa đã cho tôi được làm người ở đời.
Bất chấp những khổ đau vấp ngã, những thất bại đắng cay,
tôi vẫn xin được yêu mảnh đời Chúa dệt cho tôi.
Hôm nay Giáo Hội mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả.
Chỉ có Đức Giêsu và Mẹ Maria mới được mừng ngày sinh trong phụng vụ.
Điều đó cho thấy sinh nhật của Gioan là biến cố có ảnh hưởng lớn.
Bài Tin Mừng hôm nay nói vắn gọn về chuyện sinh hạ và cắt bì Gioan,
nhưng kể dài hơn về chuyện đặt tên cho em.
Chúng ta có thể cảm được niềm vui lớn lao của người mẹ là bà Êlisabét.
Niềm vui này đã bắt đầu từ khi bà có thai Gioan.
Chẳng biết bà bao nhiêu tuổi, chỉ biết là bà đã cao niên lại không sinh con.
Hiếm muộn thời xưa thường bị coi là do người vợ.
Đó là một sự sỉ nhục (St 30, 23) và là một hình phạt của Chúa (2 Sm 6, 23).
Nhưng bà Êlisabét lại là người công chính thuộc dòng tư tế Aharon,
“sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa,
không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6).
Bà đã sống với nỗi đau này trong nhiều năm, sau bao lần chờ đợi và thất vọng.
Khi biết mình có thai trong lúc tuổi già, 
bà tự nhủ : “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, 
khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước người đời (Lc 1,25).
Ngày sinh của Gioan là ngày vui đặc biệt cho bà, người làm mẹ lần đầu.
Niềm vui ấy còn được nhân lên vì bà sinh một cậu con trai.
Láng giềng, thân thích đến chung vui với bà vì bà được Chúa thương.
 
Chúng ta không rõ bởi đâu mà Êlisabét đòi phải đặt tên cho con mình là Gioan.
Chỉ biết bà đã phản ứng quyết liệt chuyện đặt tên con  là Dacaria.
Nhưng quyết định của người cha mới là quan trọng,
vì người cha thường là người có quyền đặt tên cho con,
qua đó nhìn nhận người con ấy là của mình (x. Mt 1, 21).
Ông Dacaria chẳng những bị câm, lại còn điếc nữa,
nên người ta phải làm hiệu để hỏi ý ông.
Khi ông viết trên bảng tên “Gioan” thì mọi người chưng hửng.
Chính lúc ấy một phép lạ xảy ra: ông nói được và chúc tụng Thiên Chúa.
Gioan là tên mà sứ thần đã dặn ông lúc dâng hương trong Đền thờ.
Gioan (Yôkhanan) có nghĩa là ĐỨC CHÚA thi ân.
Gioan thật là một ơn của Chúa và sẽ đóng một vai trò trong lịch sử cứu độ.
Chúng ta để ý đến vai trò của bà con láng giềng trong bài Tin Mừng này.
Họ đến chung vui, can thiệp ít nhiều vào chuyện đặt tên đứa trẻ.
Họ bỡ ngỡ với cái tên Gioan, và kinh sợ khi ông Dacaria nói lại được.
Việc sinh hạ Gioan quả đã được vây bọc bởi nhiều chuyện lạ lùng.
Tiếng vang không chỉ nơi láng giềng thân thích,
mà còn được loan truyền khắp vùng đồi núi xứ Giuđê (c. 65).
“Rồi đây đứa trẻ này sẽ ra thế nào ?”
Đó là câu hỏi mà ai cũng để tâm suy nghĩ sau khi nghe câu chuyện.
Hẳn là em này sẽ có một định mệnh và ơn gọi đặc biệt.
Có thể sau đó mọi sự lại lắng xuống,
còn cậu Gioan thì vẫn lớn lên, tinh thần vững mạnh.
Cậu không lập gia đình và sống trong hoang địa, chờ ngày đến với Ítraen.
 
Mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả,
chúng ta thấy được sự khiêm tốn của Thiên Chúa.
Để giới thiệu Con của Người là Đức Giêsu cho dân Ítraen,
Thiên Chúa cần đến Gioan, một người dọn đường.
“Để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng 
kêu gọi toàn dân Ítraen chịu phép rửa tỏ lòng sám hối” (Cv 13, 24).
Và Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc sinh hạ của con người này.
“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,
lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi” (Is 49,1).
Hình ảnh người Tôi Trung trên đây trong Isaia khá hợp với Gioan.
“Người là đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ
để tôi trở thành người Tôi Trung đem nhà Giacóp về cho Người…” (Is 49,5).
Hóa ra việc Thiên Chúa chọn, gọi và giao sứ mạng 
đã diễn ra ngay từ con người chỉ mới là phôi thai trong lòng mẹ.
Điều này đúng với Gioan :
“Em sẽ được đầy Thánh Thần ngay khi còn trong lòng mẹ.
Em sẽ đưa nhiều con cái Ít raen về với Đức Chúa…
và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1, 15-17).
 
Gioan đã được gọi để làm ngôn sứ cho dân tộc của ngài,
giúp cho dân Ítraen đón nhận Đấng đến sau ông nhưng lại có trước ông.
Ơn gọi ấy đã làm cho ông hiện hữu ở trên đời.
Cuộc sinh hạ của Gioan được coi là kỳ lạ.
Thật ra cuộc sinh hạ nào cũng là một màu nhiệm lạ lùng.
Khi rửa tội một em bé mới sinh, 
chúng ta cũng vẫn đặt câu hỏi : Em này rồi sẽ ra sao ?
Đâu là định mệnh tương lai của em ? 
Đâu là con đường riêng mà Chúa muốn em đi ?
Chúng ta chỉ mong bàn tay Chúa ở với em (Lc 1, 66).
Những thai nhi, những hài nhi, những trẻ thơ hôm nay ở quanh ta
cũng được hiện hữu và được trao một sứ mạng.
Mừng sinh nhật một vị thánh, chúng ta thêm trân trọng sự sống nơi các em,
và thấy mình có bổn phận nâng đỡ để các em đi con đường Chúa muốn
và trở thành những người đưa dân tộc Việt Nam đến với Chúa.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

22 thg 6, 2016

Xây trên nền đá (23.6.2016 – Thứ năm Tuần 12 Thường niên)


Lời Chúa: Mt 7, 21-29
21 “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.22 Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? “23Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!24 “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.25 Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.26 Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát.27 Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”. 28 Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy của Người,29 vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ.
Suy nim:
Nếu ai trong cộng đoàn các Kitô hữu chúng ta
có khả năng nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là dùng quyền năng của Ngài,
để nói tiên tri, để trừ quỷ hay làm nhiều phép lạ (c. 22),
chắc chúng ta sẽ tin ngay người đó là môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
Người đó dĩ nhiên phải là người tốt lành, thánh thiện, đáng tin,
vì chỉ ai là người của Chúa mới làm được những điều lạ lùng đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng vội kết luận.
Làm được những điều Chúa đã làm như trừ quỷ hay chữa bệnh
chưa chắc chắn đã là người môn đệ chân chính.
Những kết quả hoành tráng trên vẫn chưa đủ để biết cây (Mt 7, 16).
Cả những ai thưa với Thầy Giêsu: Lạy Chúa! lạy Chúa!
cũng không hẳn sẽ được vào Nước Trời (c. 21).
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn quan trọng khác để nhận định.
Đó là chính cuộc sống của người môn đệ đó.
“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời…” (c. 21).
Ý muốn ấy được giải thích và diễn tả qua “những lời Thầy nói đây” (c. 24).
Vậy tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra người môn đệ thật
đó là xem người đó có sống đúng tinh thần của Đức Giêsu không,
có làm điều Ngài dạy qua Bài Giảng trên núi không.
“Những kẻ làm điều gian ác” ở đây là những người đã nghe và không làm.
Ngay cả những kẻ ấy cũng có thể làm được những điều kỳ diệu,
khiến chúng ta bị ngây ngất, say mê và ngộ nhận.
Nhưng vào ngày phán xét, mọi sự sẽ bị phanh phui.
Chúa sẽ nói với họ: “Ta không biết các ngươi. Xéo đi khỏi Ta” (c. 23).
Nước Trời không dành cho những ai bất tuân phục Ý Chúa.
Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha,
nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận
bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền.
Không có thái độ này, thì quà có đó mà vẫn không đến tay.
Chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu quá nhiều, nhưng thực hành lại chưa đủ.
Chính vì thế khi mưa đổ xuống, gió giật, nước dâng,
ngôi nhà đời chúng ta sụp đổ dễ dàng.
Vấn đề không phải do cuồng phong và lũ lụt,
mà do nền móng của ngôi nhà, nền đá hay nền cát.
Sau một cơn bão, có những tòa nhà cổ vẫn đứng vững hiên ngang,
trong khi những ngôi nhà mới xây lại sụp đổ.
Cơn bão nói cho ta về chất lượng thật của ngôi nhà.
Có bao nhiêu cơn bão mà ngôi nhà mỗi người vẫn phải gánh chịu mỗi năm?
Có lẽ ta nên chọn một câu Tin Mừng làm nền đá cho ngôi nhà đời mình.
Và xây cả đời mình trên việc sống câu Tin Mừng ấy.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
 

21 thg 6, 2016

Cứ xem quả thì biết họ (22.6.2016 – Thứ tư Tuần 12 Thường niên)


Lời Chúa: Mt 7, 15-20
15“Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi.16 Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ?17 Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.18 Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt.19 Cây nào không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa.20 Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.
Suy niệm:
Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả.
Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói lời Chúa.
Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo.
Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15).
Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối nguy cơ này.
Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến với dân Chúa.
Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi.
Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không bị đánh lừa.
Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ làm mồi cho họ.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác
để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói : hình ảnh quả và cây.
Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất biến.
“Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên cây găng không?” (c. 16).
Hẳn là không rồi.
Cây tốt ắt sinh quả tốt, cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17).
Hơn nữa, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng định :
cây tốt không thể sinh quả xấu,
và cây xấu không thể sinh quả tốt được (c. 18).
Chính vì thế cứ nhìn quả thì biết cây.
Cứ nhìn những công việc do một người làm,
ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20).
Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh quả tốt,
đó là sống công chính như giáo huấn của Bài Giảng trên núi.
Còn những ngôn sứ giả bị lộ mặt nạ qua đời sống bất chính của họ.
Chuyện ngôn sứ giả đã có từ xưa trong Cựu ước.
Ở Côrintô, thánh Phaolô đã phải vất vả đối đầu
với những kẻ mà ngài gọi là tông đồ giả, đội lốt tông đồ của Đức Kitô.
Ngài còn thêm : “Lạ gì đâu !
Vì chính Xa tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng !” (2 Cr 11, 13-14).
Như thế các tín hữu phải cảnh giác để phân biệt chân và giả,
đặc biệt trong thời Hội Thánh gặp khủng hoảng khó khăn.
Họ phải tỉnh táo để khỏi bị dáng vẻ bên ngoài hay lý luận mê hoặc.
Điều cần lưu tâm là đời sống công chính của vị ngôn sứ.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô cho chúng ta một tiêu chuẩn
để nhận ra  hoa quả nào là bắt nguồn từ Thần Khí (5, 22).
Đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín…
Những điều ngược lại, ngài gọi là những hành động của xác thịt,
như hận thù, bất hòa, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái… (5, 20).
Sống trong một thế giới phẳng và đa nguyên, người kitô hữu hôm nay
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và nhanh chóng,
bởi nhiều nguồn thông tin, đến từ nhiều người.
Những tiêu chuẩn của Đức Giêsu hay của thánh Phaolô vẫn còn giá trị.
Nhưng chúng ta cần có thời gian để phân định quả xấu, quả tốt.
Và cũng cần có thời gian để nhận ra đâu là sói, đâu là chiên.
Lời nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Ðamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Cửa hẹp và đường chật (21.6.2016 – Thứ Ba Tuần 12 Thường niên)


Lời Chúa: Mt 7, 6. 12-14
6 “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em. 12 “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó. 13 “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó.14 Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay gồm những câu rời rạc.
Câu đầu tiên là một câu khó hiểu đối với chúng ta ngày nay (c.6),
tuy có thể rất dễ hiểu đối với những người trực tiếp nghe Đức Giêsu.
“Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai chớ liệng cho heo…”
Heo là con vật nhơ uế, chó thường được dùng để chỉ dân ngoại.
Vào khoảng đầu thế kỷ thứ hai,
sách Điđakhê coi của thánh ở đây là Mình Thánh Chúa,
từ đó xác định rằng chỉ tín hữu mới được rước lễ (9, 5).
Tuy nhiên, có thể hiểu của thánh hay ngọc trai là Tin Mừng Nước Trời.
Tin Mừng này có thể được đón nhận hay bị từ chối một cách thô bạo.
Không hẳn chỉ dân ngoại mới có người từ chối và chà đạp viên ngọc quý.
Cả người Do-thái cũng có kẻ bách hại những ai rao giảng (Mt 10, 17).
Thái độ của người môn đệ là không dừng lại, nản lòng khi bị chối từ.
nhưng là tiếp tục mang sứ điệp ấy đến cho người khác.
Câu 12 thường được coi là khuôn vàng thước ngọc.
Nó xuất hiện trong nhiều tôn giáo và văn hóa từ xưa.
“Làm cho người khác mọi điều mình muốn họ làm cho mình.”
Đây là một thái độ tích cực đòi chúng ta một chút tưởng tượng.
Tôi thử nghĩ xem mình muốn gì nơi người khác.
Cảm thông, bao dung, yêu mến, kính nể, trung thành, nâng đỡ…
Rồi tôi tìm cách trao cho họ những điều tốt lành mà tôi ước mong,
vì giữa con người với nhau, vẫn có chung những khát vọng.
Trong một thế giới mà người ta chỉ tìm làm điều tốt cho nhau,
thì thế giới đó là địa đàng, nơi sự dữ không còn đất đứng.
Như thế người kitô hữu không chỉ yêu anh chị em trong cộng đoàn,
yêu người thân cận như chính mình (Mt 22, 39),
mà còn yêu mọi người đau khổ cơ nhỡ (Mt 25, 31-46),
thậm chí yêu cả kẻ thù (Mt 5, 44).
Cộng đoàn kitô hữu là cộng đoàn yêu bằng hành động tích cực :
“chính anh em hãy làm cho người ta” (c. 12).
Người ta ở đây là mọi người, vượt quá mọi thứ biên giới.
Con đường mà Đức Giêsu đã đi là con đường hẹp, khó đi.
Nó hẹp vì nó là con đường tình yêu, mà yêu thì không dễ.
Ít ai tìm thấy con đường này, mà cũng ít người muốn đi (c. 14).
Chúng ta được mời chọn đi con đường Giêsu,
con đường tình yêu đòi hy sinh mạng sống,
con đường đòi ra khỏi mình để sống cho và sống với tha nhân.
Và chúng ta tin mình sẽ gặp được hạnh phúc.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Ðó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy
chỗ đứng của con trong Hội Thánh :
nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.
(Dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

19 thg 6, 2016

Lấy xà ra khỏi mắt (20.6.2016 – Thứ hai Tuần 12 Thường niên)


Lời Chúa: Mt 7, 1-5
1 “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán,2 vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.3 Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?4Sao anh lại nói với người anh em: “Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?5 Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.
Suy niệm
Mỗi ngày chúng ta đưa ra biết bao nhận xét về người khác.
Thầy cô phải nhận xét về học trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ.
Việc lượng giá về từng cá nhân thường rất cần thiết và hữu ích.
Trong đời sống tu trì, vẫn có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau.
Nói chung, sống thì phải đưa ra những phán đoán về người khác.
Nhưng làm sao để phán đoán ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc?
Đức Giêsu dạy ta biết cách xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay.
“Anh em đừng xét đoán” : thật ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán.
Ngài còn dạy các môn đệ biết cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15),
phân biệt người xứng đáng và người không xứng đáng (Mt 10, 11),
biết cách đề phòng thói xấu của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6).
Đức Giêsu chỉ đòi các tín hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ
phải tránh lối xét đoán thiếu bao dung, khắc nghiệt,
mà quên chính mình cũng có những lỗi lầm lớn hơn nhiều.
“Anh em xét đoán thế nào, thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2).
Ngài muốn ta nhẹ tay và nhân từ khi cần phải xét đoán người anh em.
Vì cái đấu ta dùng để đong cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta.
Đấu đong đi càng lớn, đấu đong lại càng đầy.
Chỉ cần thay đổi cái đấu ta vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi.
Đức Giêsu dùng một hình ảnh liên quan đến nghề mộc của Ngài,
để nói về chuyện người đạo đức giả.
Đó là hình ảnh bụi mùn cưa trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình.
Một cái thì thật bé, một cái thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được.
Hình ảnh phóng đại này hẳn làm ai cũng phải buồn cười.
Tôi thấy lỗi bé nơi anh em, nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi.
Tôi hăng hái xin được lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em,
nhưng lại rất khoan dung với cái xà trong mắt mình.
Đức Giêsu hóm hỉnh khuyên chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã,
rồi mới thấy tỏ tường để lấy hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em.
Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình.
Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu.
Nhưng nó khó thấy, vì tôi không muốn thấy cái xấu của mình.
Càng có quyền, có chức, có uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm,
càng khó chấp nhận nếp nhăn nơi khuôn mặt mình.
Giá mà tôi thấy được cái xà nơi mắt tôi,
chắc tôi đã không dám đòi lấy hạt bụi nơi mắt người khác,
hay nếu có được ai nhờ lấy đi nữa,
thì cũng chỉ lấy một cách khiêm hạ, nhẹ nhàng.
Trong bài hát “Chúa Hòa Bình” của Phạm Duy có câu:
“Nếu có ai lầm lỡ, rồi sinh ra khắt khe…”
Chỉ mong chúng ta, nhờ thấy mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha,
nên sinh ra dễ cảm thông với lỗi lầm người khác.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
 Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.