31 thg 12, 2013

TÍN NGHĨA ÂN TÌNH NAY HỘI NGỘ

  • CHA CHÁNH XỨ GIUSE
  • CHA PHỤ TÁ PHAOLO
  • CHA PHỤ TÁ GIUSE
  • CỘNG ĐOÀN PHỤNG VỤ GIÁO XỨ THIÊN ÂN
 HÂN HOAN MỪNG LỄ THÁNH GIA THẤT
&
 CHÚC MỪNG 110 ĐÔI HÔN NHÂN MỪNG KỶ NIỆM HÔN PHỐI

Nguyện xin ánh sáng Tình Yêu Thánh Gia: Chúa Giesu - Mẹ Maria - Thánh Giuse soi dẫn và ban muôn ân phúc cho Gia đình quý Ông Bà, Anh Chị trong NGÀY KỶ NIỆM HÔN PHỐI hôm nay và mãi mãi.
  • 60 Năm:   01 Đôi
  • 50 Năm:   03 Đôi
  • 45 Năm:   02 Đôi
  • 40 Năm:   06 Đôi
  • 35 Năm:   06 Đôi
  • 30 Năm:   15 Đôi
  • 25 Năm:   16 Đôi
  • 20 Năm:   20 Đôi
  • 15 Năm:   21 Đôi
  • 10 Năm:   20 Đôi

ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ TẶNG CÁC GIA ĐÌNH 3 TỪ KHÓA ĐỂ SỐNG HẠNH PHÚC
"Muốn có bình an và niềm vui trong gia đình, chúng ta hãy biết sống ba từ chìa khoá sau đây:
- Xin phép,
- Cám ơn và
- Xin lỗi.
Khi trong một gia đình người ta không xâm lấn nhau, nhưng biết xin phép; khi trong một gia đình người ta không ích kỷ, nhưng tập nói tiếng cám ơn; khi trong một gia đình một người nhận ra mình đã làm điều xấu và biết xin lỗi, thì trong gia đình ấy có bình an và niềm vui."

30 thg 12, 2013

TRỪNG TỬ TÌM ÁO

Trừng Tử người nước Tống làm mất cái áo màu đen, bèn đi tìm nó ở trên đường.

Ðột nhiên nhìn thấy một người đàn bà mặc một cái áo màu đen, bèn đuổi theo kéo lại không buông ra, la to: "Hôm nay tôi mới mất một cái áo màu đen".

Người đàn bà nổi giận nói: "Mặc dù ông mất một cái áo màu đen, nhưng cái áo mà tôi đang mặc đây là do tôi tự may lấy",

Trừng Tử nói: "Bà nên nhanh chóng trả lại cho tôi cái áo! Cái áo mà tôi làm mất là áo kép, mà bây giờ bà lại mặc áo đơn, lấy áo đơn đổi áo kép, lẽ nào bà không chiếm phần bở hơn tôi sao?"
(Lữ thị xuân thu)

Suy tư
Thời nay người ta rất cẩn thận không để áo của mình bị mất trộm, nhưng có những người Công Giáo đem áo kép của mình đi đổi một vài thú vui chóng qua, người ta đem áo của mình đi bán để mua lại những thứ không dùng được lâu dài. Áo kép đây chính là chiếc áo trắng mà họ đã nhận từ ngày lãnh bí tích Rửa Tội.

Chiếc áo trắng ngày Rửa Tội không phải chỉ đơn thuần là chiếc áo trắng nho nhỏ xinh xinh, nhưng cái quý giá của nó chính là đã được Máu Thánh Chúa Giêsu rửa sạch để họ được trớ nên làm con Thiên Chúa. Ðem bán nó đi tức là bán mình làm nô lệ cho ma quỷ, cho của cải vật chất và cho tội lỗi.

Thường thường cái gì mất rồi thì khó kiếm lại được, hoặc đồ quý mà bán đi rồi thì khó mà chuộc lại. Nhưng nhờ cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà chúng ta được chuộc lại những gì mà chúng ta đã bán cho ma quỷ, cho thế gian, đó chính là ân sủng của bí tích Giải Tội. Chỉ có bí tích Giải Tội mới làm cho chúng ta chuộc lại chiếc áo trắng của ngày chúng ta lãnh bí tích Rửa Tội./.


Lm. Nguyễn Tầm Thường

28 thg 12, 2013

LỄ THÁNH GIA


Tin Mừng Mt 2, 13-15. 19-23        
Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập".
Bấy giờ Hêrôđê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: "Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết". Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel. Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ không dám về đó. Ðược báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Galilêa, và lập cư trong thành gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: "Người sẽ được gọi là Nadarêô".

Feast of the Holy Family - Year A

TÊN KÌ LẠ CỦA HAI CON TRAI

Có một ông già ở thôn quê, đặt tên cho đứa con trai lớn là "Trộm" (1), và đặt tên cho đứa con trai nhỏ là "Ðánh" (2). Một hôm, đứa con trai lớn đi ra ngoài, ông già có việc gấp bèn chạy phía sau vừa chạy vừa kêu con: "Trộm, Trộm". Quan sai đi đường nghe được thì cho rằng, ông già đuổi theo tên ăn trộm, bèn bắt thằng con trai lớn.
Ông già muốn thằng con nhỏ đi theo giải thích cho viên quan sai biết, và vì trong lòng hồi hộp, nên liên tục kêu tên đứa con nhỏ: "Ðánh! Ðánh".Viên quan sai cho rằng ông già muốn trừng phạt tên ăn trộm, bèn đánh thằng con trai lớn một trận bán sống bán chết.(Doãn Văn tử)

Suy tư
Các bậc cha mẹ trẻ thời nay, thường đặt tên cho con (nhất là con gái) giống nhau, chẳng hạn như đứa chị thì đặt tên là Ái Linh, đứa nhỏ thì đặt tên là Mỹ Linh, thì cũng là tên Linh mà thôi. Một lúc nào đó vội vội vàng vàng, gặp một việc gì gấp gáp, hay cần cấp cứu, nói không nên lời, chỉ đủ sức gọi được một chữ, gọi trỏng trỏng tên Linh, thì lúc đó cả hai đứa đều nghe mà không biết là gọi đứa nào nên không đứa nào chạy đến cả thì nguy hiểm lắm!
Cái tên cũng rất quan trọng và cũng ảnh hưởng đến tâm lí của con cái sau này, và thường thì cha mẹ thích đặt tên cho con mình với những cái tên rất hay, rất kêu. Trong Cựu Ước tên của các nhân vật trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa rất có ý nghĩa: chẳng hạn như Abraham có nghĩa là "cha của vô số người" ; Isaac có nghĩa là "Ước chi Thiên Chúa cười"; Môisen nghĩa là "được vớt lên"; Kitô, Messia nghĩa là "được xức dầu"; Tôbia nghĩa là "Thiên Chúa là Ðấng tốt lành" ; Gioan nghĩa là "Thiên Chúa đoái thương".v....

Thánh Phaolô trong thư gởi cho giáo đoàn Philipphê đã nói về danh thánh của Ðức Giêsu Kitô như sau"

"...Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người

và tặng ban danh hiệu

trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu,

Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu,

Cả trên trời dưới đất

Và trong nơi âm phủ

Muôn vật phải bái quỳ;

Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,

Mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng :

"Ðức Giêsu Kitô là Chúa". (Pl 2, 9-11)

Tên Chúa Giêsu cao trọng như thế, vậy mà tôi có đủ trang nghiêm, cung kính, thờ lạy Ngài không, hay là tôi lại đem tên của Ngài ra mà đùa giỡn, thề gian, làm chứng dối?./.

CÁC THÁNH ANH HÀI

 
Những vị Thánh vô danh
Tác giả Veritas


Có một vị thánh nọ thánh thiện đến độ, không hề dám có ý nghĩ rằng mình là một con người thánh thiện.
  
Ngày kia, một thiên thần đến nói với ngài: "Chúa sai tôi đến gặp ngài. Ngài hãy xin bất cứ điều gì ngài muốn. Chúa sẽ ban cho ngài. Vậy ngài có muốn được ơn chữa bệnh không?"

Vị thánh trả lời: "Không. Thà để cho chính Chúa chữa trị thì tốt hơn". Vị sứ thần đề nghị điều khác: "Ngài có muốn đem những người tội lỗi trở về đường công chính không?"

Vị thánh cũng lắc đầu từ chối: "Không. Cải hóa tâm hồn không phải là việc của tôi. Ðó là công việc của các thiên thần". Vị sứ giả của Chúa mới gợi ý thêm: "Ngài có muốn trở thành một mẫu gương để thiên hạ luôn đến để bắt chước không?"

Vị thánh cũng khiêm tốn trả lời: "Không. Bởi vì làm như thế tôi sẽ trở thành trung tâm thu hút sự chú ý". Thiên thần mới hỏi: "Vậy thì ngài mong muốn điều gì?". Vị thánh trả lời: "Ơn Chúa, có ơn chúa, đó là điều tôi hằng khao khát".

Vị thiên thần được Chúa sai đến vẫn chưa chịu bỏ cuộc, nên đề nghị lần cuối cùng: "Ngài phải xin một phép lạ. Nếu không tôi đành phải để phép lạ xảy ra vậy". Vị thánh của chúng ta đành phải ưng thuận: "Vậy thì tôi xin điều này: ước gì mọi việc thiện được thực thi qua tôi mà tôi không hề hay biết". Thế là để là cho lời ước của vị thánh thành sự thật, Thiên Chúa ban cho cái bóng phía sau của ngài được mọi thứ quyền năng. Nơi nào có cái bóng ngài đi qua, thì nơi đó, người bệnh được lành, đất đai trở thành phì nhiêu, nguồn suối phát sinh sự sống, niềm vui trở lại trên những khuôn mặt sầu khổ.

Nhưng vị thánh không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chú ý đến cái bóng đến độ quên hẳn con người.
  
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ các thánh anh hài, những vị thánh đã chết vì Ðức Kitô mà cũng không hề hay biết rằng mình phải chết vì Ngài. Các trẻ em ấy là kiểu mẫu của không biết bao nhiêu vị thánh vô danh.

Có những Mẹ Têrêxa Calcutta, những linh mục Pierre mà thế giới không ngừng nhắc đến, nhưng cũng có không biết bao nhiêu những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ ngày ngày âm thầm hy sinh trong không biết bao nhiêu công việc vô danh, phiền toái mỗi ngày. Có biết bao nhiêu người đang âm thầm đau khổ và hy sinh cầu nguyện mà không thể thấy được kết quả của lời cầu nguyện của mình. Có biết bao nhiêu người âm thầm phục vụ tha nhân cách này hay cách khác mà không hề được đền đáp hay nhắc nhớ.

Trong ánh sáng của Mầu Nhiệm Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi để tìm thấy giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày. Sự thinh lặng bé nhỏ của Hài Nhi Giêsu trong hang đá Bê Lem, 30 năm âm thầm của Ngià tại Nazareth: đó là ý nghĩa của cuộc sống phiền toái, độc điệu mỗi ngày của chúng ta. Hài Nhi Giêsu mời gọi chúng ta nhận ra giá trị của cuộc sống ấy. Thiên Chúa thi ân tùy theo cách thế Ngài muốn. Cuộc sống âm thầm và hy sinh từng ngày của chúng ta là một trong muôn nghìn cách thế thi ân của Ngài mà chúng ta không thể đo lường được. Ngoài sự tưởng tượng và dự đoán của chúng ta, những hy sinh từng ngày của chúng ta được Chúa dùng như cái bóng vô hình nhờ đó Ngài thông ban muôn ơn lành cho người khác.

27 thg 12, 2013

THÁNH GIOAN TÔNG ĐỒ TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG


Ngày 27 tháng 12THÁNH GIOAN TÔNG ĐỒTHÁNH GIOAN TÔNG ĐỒ
“Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4, 16)
Khi thánh Gioan tiền hô ra giảng ở bờ sông Giođanô và làm phép rửa cho dân chúng, ngài cũng có những môn đệ theo mình. Một ngày kia khi thánh nhân và hai môn đệ đang ngồi trên bờ sông thì Chúa Giêsu đi qua. Thánh Gioan tiền hô giơ tay chỉ Chúa và nói: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa”. Nghe vậy, hai môn đệ liền bỏ thầy mình mà theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quay lại và thấy họ đi theo, Người hỏi: “Các ông tìm ai?”. Họ thưa: “Thưa Thầy, xin Thầy cho biết Thầy ở đâu?”. Chúa nói: “Hãy đến mà xem”. Các ông đi theo đến nơi Người ở và ở lại với Người cả đêm hôm đó. Một trong hai môn đệ đó là Anrê. Còn môn đệ thứ hai, Phúc âm không cho biết tên, người ta luận rằng là Gioan mà vì khiêm nhường nên tác giả Phúc âm thứ bốn đã không muốn ghi tên mình trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Con Đức Chúa Trời.
Gioan lúc đó mới chừng 25 tuổi, sinh ra tại Bethsaida một thị trấn nhỏ trên bờ hồ Tibêria. Thân phụ ngài là ông Zêbêđê làm nghề chài lưới ở hồ. Gia đình Gioan cũng vào bậc khá giả, có thuyền có lưới có người làm thuê. Bà Salômê, thân mẫu Gioan, rất nhiệt thành với việc truyền đạo; đã giúp công giúp của cho Chúa nhiều.
Gioan là một thanh niên đầy nghị lực, ngày ngày đi đánh cá với anh là Giacôbê, ông này sau cũng theo Chúa làm tông đồ và chịu tử đạo tại thành thánh Giêrusalem.
Theo truyền thuyết của các Giáo phụ, thì bà Salômê có họ với gia đình Chúa Giêsu. Vì thế cũng như Gioan tiền hô, Gioan và Giacôbê là anh em họ với Chúa Giêsu. Cả hai vì đời sống ngay thẳng, đức tính tốt nên đã sẵn sàng đón nhận tinh thần tông đồ của Đấng thiên sai.
Tuy nhiên sau cuộc hội ngộ đầu tiên với Chúa Giêsu, Anrê và Gioan lại trở về nghề cũ đợi cho đến một ngày kia Chúa Giêsu chính thức kêu gọi các ông làm môn đệ và các ông thực tình theo Chúa.
Nhưng dù đã được Chúa Giêsu gọi, Gioan cũng như các bạn ngài chưa tiến đến tột đỉnh của đường trọn lành. Ngài vẫn còn là một dân chài mộc mạc, đôi khi cứng cỏi. Nhưng Chúa Giêsu đã huấn luyện dần dần biến cải những người đánh cá chất phác đôi khi thô lỗ ấy thành những kẻ “đánh cá người” đầy tài năng đức độ, luôn luôn có tâm hồn quảng đại và những ước vọng siêu nhiên. Qua những câu truyện dưới đây, người ta sẽ thấy rõ hơn những nét tính tự nhiên của Gioan và tâm tính hiền từ mà Chúa Giêsu đã muốn cho các môn đệ Người phải có.
Một ngày kia Gioan thấy có mấy môn đệ không thuộc về nhóm tông đồ của Chúa Giêsu làm phép lạ, ngài vội vã tới trình Chúa vì cho đó là một sự lạm dụng: “Thưa Thầy, chúng con đã thấy có người lấy tên Thầy mà đuổi quỉ, nhưng họ chẳng thuộc về nhóm chúng con, nên chúng con đã ngăn cản họ”. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Đừng ngăn cản họ, vì kẻ nào không chống lại các con, tức là về phe các con”.
Rồi một hôm khác, Chúa Giêsu từ thành thánh trở về, Người muốn qua miền Samaria, nhưng dân cư trong miền vì thù nghịch với người Do thái, nên không muốn tiếp nhận những người lên Giêrusalem hành hương. Tức thì Gioan và Giacôbê, “con cái của sấm sét”, như người ta thường gọi, phẫn uất và tức giận đã xin Chúa Giêsu cho phép lấy lửa trên trời xuống thiêu hủy họ. Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn nói: “Các con chẳng biết các con thuộc tinh thần nào. Các con không còn sống vào thời Êlia nữa, không còn sống dưới luật pháp và sự sợ hãi nữa. Thời gian của Đấng thiên sai đã đến, và với Người ơn nghĩa và lòng tha thứ sẽ ngự trị trên trái đất”.
Nhưng Gioan và Giacôbê vẫn chưa hiểu lời Chúa; các ông vẫn còn chưa thấu đáo được tinh thần của Thầy chí thánh. Rồi bà Salômê mẹ thánh Gioan cũng nhầm lẫn như con, nên một ngày kia bà đem hai con đến tìm gặp Chúa và thưa với Người: “Xin Thầy hãy truyền cho hai con tôi đây, một đứa ngồi bên tả, một đứa bên hữu Thầy trong nước Thầy trị”. Chúa Giêsu biết rõ những kẻ chủ mưu, nên Người không nói với bà Salômê. Chúa Giêsu quay lại phía Gioan và Anrê mà nói: “Các con chẳng hiểu điều các con xin. Các con có thể uống chén Thầy uống chăng?”. Hai ông không hiểu rõ lời Chúa, nhưng cũng vội vàng thưa: “Thưa Thầy, chúng con uống được”. Nhân đó Chúa Giêsu tiên báo cho hai ông phúc tử đạo mà một ngày kia hai ông sẽ được, chứ không hứa thưởng công cho các ông theo tham vọng trần gian.
Dầu vậy trong trường tông đồ, Gioan vẫn chiếm được một địa vị đặc biệt trong Trái tim của Chúa. Chính Chúa Cứu Thế nhiều lần cũng đã tỏ lộ lòng trìu mến của Người đối với người môn đệ trinh khiết. Gioan được tham dự, được dự kiến những mầu nhiệm và những phép lạ đặc sắc nhất của Thầy Chí Thánh, mà đám đông quần chúng và ngay cả nhiều tông đồ cũng không được hạnh phúc ấy. Ngài đã cùng với thánh Phêrô và Giacôbê chứng kiến Chúa Giêsu cho con ông Giairô sống lại. Đây là lần đầu tiên Gioan thấy quyền lực của Đấng thiên sai thắng vượt sức mạnh của sự chết.
Ít lâu sau, cũng chỉ với ba tông đồ trên, Chúa Giêsu đã dẫn các ông lên núi Taborê để cho các ông xem thấy sự cả sáng của Người.
Với đời sống gần gũi, mật thiết với Thầy Chí Thánh, Gioan đã nhận được những cái nhìn trìu mến, đã thường xuyên chiêm ngắm Thiên Chúa Nhập Thể. Nhờ đó, ngài đã am hiểu sâu xa về giáo lý của tình yêu.
Trong bữa tiệc ly, sau khi đã dự tiệc Thánh Thể, thánh Gioan nhè nhẹ dựa đầu vào ngực Chúa, một cử chỉ biểu lộ tình yêu nồng nàn của thánh nhân, khi sự thông cảm giữa Cha và con tiến đến tột bực. Trong cử chỉ ấy, thánh nhân đã múc lấy nguồn tình yêu để sau này phân phát, giãi bày cho nhân loại. Đồng thời ngài cũng nhận lấy lòng kiên trì, đức can trường mà ngài sắp tỏ ra.
Thực vậy, sau đấy chỉ mình Gioan có can đảm theo Chúa Giêsu từ vườn Dầu đến nhà Caipha, rồi từ nhà Caipha tới đồi Canvê. Và gần đây, bên thánh giá, giờ Chúa hấp hối, ngài đã đứng bên Mẹ Chúa cùng với mấy bà đạo đức, trong đó có cả thân mẫu ngài. Khi Chúa Giêsu gần tắt thở, nhìn xuống thấy môn đệ thân yêu đang đứng đấy, Chúa đã nói cùng Mẹ Maria: “Này Bà, đây là con Bà”. Rồi Người quay lại nói với môn đệ: “Này con, đấy là Mẹ con”. Rồi từ đấy, thánh Gioan theo lời trối của Thầy đã đem Mẹ Maria về nhà mình để phụng dưỡng.
Thánh Gioan đã nếm những giờ phút đau khổ, giờ phút tử nạn của Thầy Chí Thánh, thì chính thánh nhân cũng nhận được sớm hơn ai hết những sự vui mừng của ngày Chúa phục sinh. Khi mẹ ngài ra thăm mồ và thấy mồ trống, bà liền chạy về cho con và Phêrô hay. Hai tông đồ nghe tin đều cảm động, tất tả chạy tới mồ và lòng tràn ngập vui mừng vì tin rằng Thầy đã sống lại.
Trong 40 ngày còn ở lại dưới thế, Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ nhiều lần. Một ngày kia, đang khi các ông đánh cá, Chúa hiện ra đi trên bờ hồ, nhưng các môn đệ không ai nhận biết Người, chỉ có một mình Gioan sớm nhận ra đó là Thầy và bảo Phêrô: “Thầy đấy”. Thánh Ambrôsiô luận rằng: Sự trinh khiết của Gioan đã giúp ngài nhận thấy ngay Đấng hoàn toàn khiết trinh.
Khi Chúa đã về trời rồi và sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Gioan không rời thành thánh ngay. Ngài ở tại nhà cùng với Đức Mẹ Maria. Cùng với Mẹ Chúa, ngài đi thăm viếng những nơi Chúa đã chịu đau khổ, trao đổi với Đức Mẹ những mầu nhiệm cao trọng. Do ơn Thầy Chí Thánh, dần dần Gioan thấu hiểu những mầu nhiệm bí nhiệm ấy.
Dưới sự dẫn dắt của Đức Mẹ và thánh Phêrô, ngài cộng tác vào việc kêu gọi con cái Israel trở lại với Chúa.
Một ngày kia thánh Phêrô và thánh Gioan đi vào đền thờ để cầu nguyện. Hai vị gặp một người nghèo, què xin của bố thí. Hai tông đồ nhìn hắn và nói: “Hãy nhìn chúng tôi”, và thánh Phêrô thêm: “Tôi không có vàng, không có bạc, nhưng cái gì tôi có, tôi sẽ cho anh; vậy nhân danh Chúa Giêsu Nagiarét, anh hãy đứng dậy mà đi”. Tức thì người què được lành ngay.
Dân chúng kinh ngạc vì phép lạ đã vây lấy hai người mà nghe lời giảng dạy. Nhưng các nhân viên hội đồng cộng tọa thấy các ngài giảng nhân danh Đấng bị đóng đanh, liền hạ lệnh bắt giam các ngài. Đến sau vì sợ dân chúng nổi loạn nên họ phải tha các ngài.
Sau khi Đức Mẹ qua đời và sau khi thành Giêrusalem bị tàn phá, thánh Gioan từ bỏ thành thánh tới giảng đạo ở miền Tiểu á. Đến đây thánh Gioan hoàn thành công việc của vị tông đồ dân ngoại, vì trước đây thánh Phaolô đã qua giảng đạo tại đó. Ngài tổ chức được rất nhiều giáo đoàn thịnh vượng và thường ở lại Êphêsô để cai quản toàn thể Giáo hội miền đông. Nhiều người cho rằng chính Đức Mẹ đã ở Êphêsô với thánh Gioan. Thế nên ở Êphêsô có một nhà của Đức Mẹ mà khách thập phương thường tới kính viếng.
Trong khi rao giảng Tin mừng, thánh nhân luôn luôn đả phá sự tôn thờ các thần minh nhất là đạo thờ bụt Điana đang thịnh hành ở miền đó. Nhưng những người thuộc giáo phái đó cáo ngài với chính quyền Rôma, ngài bị bắt điệu tới Rôma vào thời Hoàng đế Đômixianô và bị buộc tội khinh bỉ các thần minh. Vì thế vào năm 95, ngài bị đầy ra đảo Pátmô trong biển Êgiê để làm nghề thợ mỏ.
Trong thời gian lưu đày, thánh Gioan vừa làm việc vừa cố gắng đem Tin Mừng đến cho dân chúng trong hải đảo. Cũng trong thời kỳ này, thánh nhân đã viết bức thư gửi cho giáo đoàn, tức cuốn Khải huyền mà mỗi câu là một ý tưởng huyền nhiệm vượt quá trí hiểu thông thường.
Sau khi Đômixianô chết, nghị viện tiêu hủy những án lệ của bạo vương, nên Gioan được trở về Êphêsô vào năm 97. Vào thời kỳ này các môn đệ nài xin thánh nhân viết lại đời sống Chúa Giêsu. Sau khi cầu nguyện để xin ơn soi sáng. Ngài nhận lời và viết Phúc âm thứ bốn, cuốn Phúc âm đầy những tư tưởng cao siêu về Chúa mà chỉ mình Gioan hiểu thấu và phổ biến cho nhân loại. Người cũng chỉ viết ba bức thư hàm súc đầy tình bác ái Kitô giáo.
Thánh tông đồ thích chủ tọa các buổi hội họp tín đồ và đặc biệt nêu cao giới răn bác ái. Vì vậy khi đã già không thể đi lại được nữa, thánh nhân sai người cáng tới các buổi hội và nói đi nói lại rằng: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”. Chán nản vì chỉ nghe mãi một lời, các tín đồ thưa: Thưa thầy, sao thầy cứ nói mãi một lời”. Ngài nói: “Đó là luật riêng của Chúa, nếu các con thực hành trọn thì bấy nhiêu là đủ rồi”.
Lời nói trên là chứng tích của môn đệ “được yêu riêng”. Thánh Gioan cũng là tông đồ sống cuối cùng; ngài sống thọ hơn 100 tuổi và chết bình an vào ngày 27 năm 101 tại Êphêsô, nơi ngài đã đem hết tâm lực để rao truyền giới răn bác ái mà ngài đã lĩnh nhận nơi Thầy chí thánh.
Hiện nay ở Rôma có một đền thờ dâng kính thánh nhân với danh hiệu là nhà thờ thánh Gioan cửa thành. Ngôi thánh đường này sở dĩ có là do một truyền thuyết ít đáng tin cậy cho rằng thánh Gioan, trong thời bắt đạo, đã bị bỏ vào vạc dầu sôi và đã được Thiên Chúa cứu thoát cách lạ.
Nguồn: Hạnh Các Thánh

26 thg 12, 2013

Thánh Stephano Tử Đạo Tiên Khởi

Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Giáo Hội cử hành Lễ Thánh Stephanô, tử đạo, ngay sau Lễ Giáng Sinh? (26 tháng 12) Câu trả lời có lẽ liên kết mục đích của việc Nhập Thể với bổn phận của Kitô hữu: “Niềm vui Giáng Sinh là con người được nhìn thấy Ơn Cứu Độ; nhưng để đạt được Ơn Cứu Độ, con người phải chứng minh niềm tin của mình nơi Người Con.” Sau những vui mừng nhộn nhịp của Ngày Giáng Sinh, con người dễ có khuynh hướng trở lại cuộc sống bình thường, Giáo Hội muốn nhắc nhở cho các tín hữu bổn phận làm chứng cho Đức Kitô trong cuộc sống hằng ngày.
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh việc làm chứng cho Đức Kitô.
Trong Bài đọc I, Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc tử đạo của Stephanô, chứng nhân đầu tiên cho Đức Kitô. Trong Vuơng Cung Thánh Đường Stephanô của các cha Đa-minh tại Đất Thánh, trong Học-viện Thánh Kinh École Biblique, có vẽ 3 tấm hình: một của Gioan Tẩy Giả đang chỉ tay vào Chúa Giêsu, Người đứng giữa và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian.” Một của Phó-tế Stephanô cũng chỉ tay vào Chúa Giêsu và nói: “Đây là Đấng mà tôi đã đổ máu làm chứng cho Ngài.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ giá phải trả của sứ vụ làm chứng cho Ngài: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.”
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con."
1.1/ Tiểu sử của Stephanô: Phó-tế Stephanô là một trong 7 Phó-tế đầu tiên được chọn để giúp các Tông-đồ. Lý do có Phó-tế là để các Tông-đồ chuyên lo việc cầu nguyện và giảng dạy (Acts 6:1-6). Điều kiện để làm Phó-tế là phải có thanh danh tốt, đầy tràn Thánh Thần và khôn ngoan. Chúng ta không biết nhiều về lịch sử của ông. Tên của ông Stephanô, tiếng Hy-Lạp có nghĩa là “triều thiên.” Trên tấm bia tìm được nơi mộ ông, có khắc chữ Kelil, một từ Aramaic cho Stephanos của Hy-Lạp. Có lẽ đây là tên nguyên thủy của ngài.
Không ai biết rõ địa điểm nơi ngài bị ném đá. Có người cho là tại Cổng Stephanô của Thành Jerusalem ngày nay; điều này không chắc chắn vì không thấy tài liệu lịch sử nào ghi lại. Hơn nữa, các Cổng Thành hiện nay cũng mới được xây lại từ thế kỷ 16. Nguồn sử liệu chắc chắn hơn và dựa trên khám phá khảo cổ mới tại Đất Thánh, xương cốt của ngài được để tại Vương Cung Thánh Đường Stephanô của các cha Đa-minh trong khuôn viên của Học-viện Kinh Thánh. Vương Cung Thánh Đường mới được xây dựng lại trên nền nhà của Vương Cung Thánh-đường Byzantine cũ, xây dựng vào năm 431 bởi Juvenal, Giám-mục của Jerusalem, với sự trợ giúp của Bà Hòang Eudocia. Thánh Cyril, Giám-quản của Alexandria, khánh thành Thánh Đường vào ngày 15 tháng 5 năm 439. Trong khi khánh thành, Thánh Cyril đã cho di chuyển xương cốt của Stephanô, Thánh Tử Đạo Tiên Khởi, từ một nhà thờ trên Núi Sion đã giữ xương cốt này trong 24 năm vào Thánh Đường này. Bà Hòang Eudocia cũng được chôn cất tại đây.
Sách Công Vụ Tông Đồ mô tả vắn tắt cuộc đời của Stephanô: Ông Stephanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Địch thù tranh luận với ông là những người thuộc hội đường gọi là hội đường của “nhóm nô lệ được giải phóng,” gốc Cyrene và Alexandria, cùng với một số người gốc Cilicia và Asia. Hậu quả của cuộc tranh cãi: “Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thánh Thần đã ban cho ông. Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stephanô.” Vì họ không thể cãi lại ông, nên họ dùng những con người gian dối để tố cáo ông tội phạm thượng tới Thiên Chúa và Moses, để có cớ ném đá ông (Acts 6:14).
1.2/ Biến cố tử đạo của Stephanô: Trình thuật kể: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa." Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saul. Họ ném đá ông Stephanô, đang lúc ông cầu xin rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con."”
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.

25 thg 12, 2013

LỄ GIÁNG SINH - LỄ BAN NGÀY


Tin Mừng:  Ga 1:1-5, 9-14
                Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật,  ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,  cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông,  nhưng do bởi Thiên Chúa. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 



LỄ GIÁNG SINH - LỄ RẠNG ĐÔNG

15 Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau : "Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết." 16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. 18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. 19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
 

LỄ GIÁNG SINH - LỄ ĐÊM

Tin Mừng:  Lc 2,1-14
                Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em.
                Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem, miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bàkhông tìm được chỗ trong nhà trọ. Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
Christmas || Midnight Mass

24 thg 12, 2013

SUY TƯ GIÁNG SINH

                                                                                         
Lễ Giáng Sinh có nhiều điều khiến phải “động não”, xét mình, suy tư, chấn chỉnh, quyết tâm,... để chính tâm hồn trở thành “hang đá” cho Đấng Cứu Thế giáng sinh – chứ không phải hang đá vật chất.

  
Giáng Sinh cứ đến rồi đi như chiếc xe buýt chạy qua trên đường, tôi thấy kiểu nào và rút được bài học gì không? Đây chỉ là suy tư riêng, xin được chia sẻ...
 

1. ĐƠN SƠ
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về tính Đơn Sơ – đơn sơ trong lời nói, cử chỉ, thái độ, hành động, ánh mắt, nụ cười, tín thác, yêu mến,…
Chúa Giêsu sinh ra là một trẻ thơ. Trẻ thơ luôn đơn sơ, hoàn toàn tin tưởng vào cha mẹ, không so đo, không tính toán. Như vậy, sống đơn sơ cũng là sống khiêm nhường: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18:3).
Chính Đức Kitô cũng đã căn dặn và “mách nước” để sống giữa thế gian: “Hãy khôn như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10:16). Còn Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Tôi sợ rằng như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối bà Eva thế nào, thì nay trí lòng anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với Đức Kitô như vậy” (2 Cr 11:3).

2. MAU MẮN
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về sự mau mắn – mau mắn trong mọi việc, tâm linh hoặc đời thường.
Sự mau mắn liên quan sự dứt khoát. Không dứt khoát thì không thể mau mắn, và không mau mắn thì không thể dứt khoát. Thiên Chúa không thích thái độ lừng khừng, chần chừ, lần lữa. Chính Ngài đã thẳng thắn và dứt khoát: “Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:16).
Tôi phải bắt chước các mục đồng mau mắn đến với Chúa: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15).

3. KHÓ NGHÈO
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về đức Khó Nghèo – khó nghèo trong lối sống, sinh hoạt, tiêu xài, ý nghĩ,...
Mầu nhiệm Mai Khôi thứ Năm của Mùa Vui: “Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn”. Khó khăn ở đây là “sống đức khó nghèo” chứ không phải là “khó chịu”, “khó tính”, “khó ưa”,... Can đảm chấp nhận cảnh sống khó khăn là một nhân đức, vì chính Chúa Giêsu tự nguyện trở thành Đệ Nhất Hàn Vương – từ Belem tới Can-vê.
Theo Việt ngữ, “nghèo khó” cũng như “khó nghèo”. Vâng, hãy sống “khó nghèo” thực sự chứ đừng sống “KHÓ (mà) NGHÈO”, tức là chỉ nói suông, vẫn ung dung tự tại, “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”.

Dụ ngôn Phú hộ và La-da-rô nghèo khổ (Lc 16:19-31) cho thấy cái Phúc của sự khó nghèo, và Chúa Giêsu cũng bảo người ta đãi tiệc thì mời những người nghèo (Lc 14:12-14). Cố gắng đừng nao núng như lời kể của Thánh Phaolô: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người giàu lòng quảng đại” (2 Cr 8:2). Một trong Tám Mối Phúc cũng nhắc đến đức khó nghèo: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3; Lc 6:20).

4. VÂNG PHỤC
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về đức Vâng Phục – vâng phục trong sự khiêm nhường và vui vẻ.
Thánh Phaolô nói: “Trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế: nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người” (Rm 11:30-32).
Vâng lời trọng hơn của lễ (1 Sm 15:22 và Tv 50:8-9). Thật vậy, Thiên Chúa luôn đề cao đức vâng lời. Về việc con cái vâng lời cha mẹ, Thánh Phaolô nói: “Vâng phục cha mẹ là làm đẹp lòng Chúa” (Cl 3:20). Thật vậy, dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Kitô vẫn giữ trọn đạo làm con đối với cha mẹ: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51).

5. BẢO VỆ SỰ SỐNG
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về việc Bảo vệ Sự sống – bảo vệ thai nhi, giúp đỡ bệnh nhân, người hoạn nạn,...
Tại nơi hang chiên lừa ở Belem, Chúa Giêsu đã giáng sinh trong hình hài một trẻ thơ. Trẻ thơ cũng là một con người với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Bảo vệ sự sống là trách nhiệm của mọi người.
Sự sống là Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã định nghĩa về Ngài: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6a). Rồi Ngài xác định: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6b).

6. CHIA SẺ
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở tôi về Đức Ái – mến Chúa và yêu người, thậm chí là yêu loài vật, yêu thiên nhiên,... vì Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4:8).
Yêu thương liên quan việc chia sẻ. Chia sẻ tinh thần hoặc vật chất. Chia sẻ là “trả nợ”. Chia sẻ là yêu thương, tức là thực hành Luật Yêu của Thiên Chúa. Chia sẻ là yêu người, yêu người là mến Chúa; không yêu người là không mến Chúa: Nếu ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22). Thánh Phaolô xác định: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8).
Dù là phàm nhân, cổ nhân cũng đã minh định rạch ròi: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” – Lưới trời lồng lộng, không ai thoát được!

7. TẠ ƠN
Tất cả là hồng ân, vì không có Chúa thì tôi chẳng làm được trò trống gì, chỉ là vô tích sự: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Tạ ơn là bổn phận và trách nhiệm của thụ tạo đối với Thiên Chúa, Đấng tác sinh muôn loài hữu hình và vô hình. Lễ Giáng Sinh là hồng ân cao cả, vì Con Chúa đến không chỉ để đồng cam cộng khổ với tôi trong thân phận kiếp người, mà Ngài còn cho tôi “được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết can đảm sống theo gương Con Một Ngài. Xin Chúa giúp con viết những gì con sống, và sống những gì con viết. Xin Chúa thương soi sáng, gợi ý và hướng dẫn con mỗi khi con viết lách về bất cứ điều gì hoặc ở dạng nào. Xin Chúa giúp con thành tâm chia sẻ chính Ngài với tha nhân, để làm vinh danh Ngài chứ không vì danh giá riêng con. Nếu có gì lệch lạc, xin Ngài dập tắt ngay từ khi manh nha. Xin Chúa cho bất kỳ ai gặp con thì cũng đều gặp được Chúa. Và con cũng chỉ xin Ngài như bổn mạng của con là Thánh Thomas Aquino: “Con chỉ muốn Chúa mà thôi”. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ của con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

21 thg 12, 2013

QUẬN TÂN PHÚ CHÚC MỪNG GIÁNG SINH 2013

     Sáng nay 21.12.2013 vào lúc 8g00: Các cấp Chính quyền Quận Tân Phú và Phường Phú Thạnh TP. HCM đã đến Chúc Mừng Giáng Sinh 2013.

    Cha Giuse Lê Hoàng chánh xứ Thiên Ân đã  đại diện Giáo xứ tiếp đoàn. Sau khi thăm hỏi chúc mừng, đoàn được cha xứ hướng dẫn đến tham quan Hang Đá và chụp ảnh lưu niệm, tất cả nói lên tình đoàn kết "Tốt Đạo đẹp Đời"...





Chúa Nhật IV Mùa Vọng - Năm A


Tin Mừng Mt 1,18-24 
 

Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.

Sunday IV in Advent - Year A 

ÔNG GIÀ NOEL THẾ NÀO ?

Bạn có dạy cho trẻ rằng Ông Già Noel có thật? Hoặc bạn có lo những chuyện như vậy có thể gặp rắc rối đối với sự hiểu biết về ý nghĩa đích thực của lễ Giáng sinh?
 
Chủ đề này đã và đang được bàn thảo trên các trang web thường xuyên trong giới Công giáo trong Mùa Vọng này.
Những người thông minh và có ý xấu tranh luận về Ông Già Noel ở nhiều nơi. Cách nghĩ của bạn về Ông Già Noel được xác định bằng cách bạn được giáo dục.

Nếu bạn được dạy tin vào Ông Già Noel và đó là kinh nghiệm đẹp kỳ diệu đối với bạn thì bạn sẽ muốn chia sẻ với con cái. Nếu bạn được dạy không tin Ông Già Noel thì bạn có thể sẽ thấy chuyện kể về Ông Già Noel là có thật.
Có lần tôi đã hỏi mẹ tại sao không “tạo” Ông Già Noel trong gia đình khi tôi đã lớn. Tôi hy vọng câu trả lời triết lý nào đó về tầm quan trọng của việc không lẫn lộn ngày lễ tôn giáo với truyền thống đời, nhưng điều tôi có là một câu chuyện xúc động về việc làm cha mẹ thực tế.
Mẹ tôi nói với tôi: “Cha mẹ đã cố gắng tạo Ông Già Noel, nhưng bây giờ em con về nhà nói với mẹ rằng bạn nó phải là đứa con ngoan hơn nó vì nó có nhiều quà dịp lễ Giáng sinh, thế là hết chuyện Ông Già Noel”.
Trong gia đình tôi ngày nay, chúng tôi không dạy các con rằng Ông Già Noel có thật, vì… (có thể làm hư nó!) và vì Ông Già Noel không có thật. Nhưng chúng ta “giả bộ tin” thôi.
Chúng tôi dạy các con về Thánh Nicholas và mừng lễ kính ngài, nhưng chúng biết rằng chúng tôi là những người bỏ quà vào nhưng chiếc giầy cho chúng vào ngày 6 tháng 12. Có những món quà và những chiếc vớ vào ngày 25 tháng 12, nhưng chúng biết rằng cha mẹ và ông bà của chúng là những người làm điều đó.

Chúng tôi cũng không tránh né Ông Già Noel. Thật vậy, Ông Già Noel là “người vui vẻ” nên có vào mùa này. Chúng tôi đọc những truyện viết về ông, xem ông trên truyền hình, và nói vui về cách ông có thể xoay xở tìm cách vào nhà, nơi có ống khói dẫn thẳng xuống lò sưởi.
Tôi có thể chắc chắn rằng việc không tin Ông Già Noel sẽ không làm hại kinh nghiệm Giáng sinh của bất kỳ ai hơn là tin Ông Già Noel tục hóa lễ Giáng sinh.
Khi tôi lớn khôn, tôi biết ý nghĩa thật về lễ Giáng sinh, về sự giáng sinh của Chúa Giêsu, và tặng phẩm Ơn Cứu Độ. Sự thật là cha mẹ tôi đã để dành tiền mua những món quà “bí mật”, tổ chức bữa tiệc, và dựng một cây Noel được trang trí đèn để mừng đón món quà vĩ đại của Thiên Chúa, và tình yêu thương là điều kỳ diệu mà tôi cần.
Còn bạn thì sao? Bạn có đóng vai Ông Già Noel vui vẻ trong gia đình vào mùa Giáng sinh này?

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ National Catholic Register)

Xét mình Mùa Vọng: Tỉnh thức trước nhiều lối sống nguy hiểm

Để sống niềm hy vọng vào Thiên Chúa và gieo niềm hy vọng cho mọi người, đòi tôi phải luôn tỉnh thức trước cuộc sống của mình. Khi xét mình trong Mùa Vọng, tôi thấy mình có khi tỉnh mà không thức, có lúc thức mà không tỉnh; hoặc tỉnh thức về những điều này nhưng lại mê muội về những điều kia… Do đó, có thể tôi đang rơi vào nhiều lối sống nguy hiểm: 

- Nguy hiểm cơ bản là lối sống không trưởng thành về nhân bản.
- Nguy hiểm đáng sợ là lối sống không trưởng thành về tâm linh.
- Nguy hiểm thường xuyên là lối sống không trưởng thành về tri thức. 


I. Nguy hiểm cơ bản là lối sống không trưởng thành về nhân bản.

1. Quá chú trọng đến bản thân mình mà ít quan tâm đến tha nhân. 
2. Coi trọng việc riêng mà coi nhẹ việc chung.
3. Chỉ làm những điều mình muốn làm mà không làm những điều mình phải làm.
4. Đòi hỏi người khác mà không hề đòi hỏi mình. 
5. Góp phần xây dựng thì ít mà chê bai phê phán thì nhiều. 
6. Ham quyền hành chức vụ mà không khiêm tốn phục vụ. 
7. Phục vụ theo ý mình mà không theo nhu cầu của người khác. 
8. Ưa chuộng và quí mến người này nhưng ghét bỏ và khinh thường người kia. 
9. Cởi mở và vui vẻ với anh em này nhưng đóng kín và lạnh lùng với anh em khác. 
10. Đặt nặng công việc mà coi nhẹ con người. (lấy con người làm phương tiện).
11. Đặt nặng hiệu năng mà coi thường tính cách và ý hướng. (Bệnh thành tích). 
12. Đòi hỏi có tự do mà không có khả năng sống tự chủ. 
13. Khôn nhưng không ngoan, thẳng nhưng không khéo. 
14. Phán đoán bên ngoài mà không tìm hiểu bên trong. (Nông cạn, hình thức)
15. Đánh giá mình và người khác dựa vào công việc, mà không dựa vào phẩm cách. 
16. Biết lỗi mà không nhận lỗi; nhận lỗi mà không sửa lỗi. (Cố chấp)
17. Làm theo những gì mình nghĩ, mà không nghĩ về những gì mình làm. 
18. Nhiệt thành mà thiếu khôn ngoan. (Chủ quan, nhẹ dạ).
19. Ham nghe người khác tâng bốc mà không muốn nghe sự thật. (tự lừa dối mình).
20. Muốn mọi người phải giúp mình nhưng mình chẳng giúp ai. (ích kỷ).


II. Nguy hiểm đáng sợ là lối sống không trưởng thành về tâm linh. 

1. Đặt nặng hình thức, tổ chức bề ngoài, mà coi thường nội dung và đời sống bên trong.
2. Ưu tiên cho các phương tiện vật chất, còn ơn thánh thì lại chẳng quan tâm.
3. Lao mình vào sự hiếu động ồn ào, còn nội tâm thì lạnh lùng, trống vắng.
4. Đặt nặng việc hưởng thụ, coi thường việc khổ chế.
5. Bám vào những công việc của Chúa, còn chính Chúa thì phớt lờ.
6. Lo được lòng mọi người mà không lo được lòng Chúa. 
7. Chuyên chăm việc đời mà lười biếng việc đạo.
8. Phản ứng tự nhiên mà thiếu tinh thần siêu nhiên
9. Lo bồi dưỡng thân xác mà không lo bồi dưỡng tâm hồn. 
10. Sống bác ái mà thiếu chân thật, sống chân thật mà thiếu bác ái. 
11. Làm việc vì danh thơm tiếng tốt hơn là vì lòng yêu mến.
12. Tìm cách thay đổi mọi người mà không thay đổi chính mình.
13. Lo xây đắp tương lai mà không sống trọn giây phút hiện tại. 
14. Muốn thành quả mà không muốn hy sinh.
15. Thực thi bác ái mà lại không sống công bằng. 
16. Yêu mến Chúa mà không yêu mến anh em.
17. Theo đuổi ơn gọi mà không sống ơn gọi: lo tiến thân mà không hiến thân.
18. Nỗ lực sống trung thành nhưng lại thiếu trung thực.
19. Cầu nguyện một đàng, sống một nẻo.
20. Nhiều thiện chí mà không có hành động. 


III. Nguy hiểm thường xuyên là lối sống không trưởng thành về tri thức. 

1. Biết nhiều thứ mà không biết mình.
2. Biết thì nhiều mà sống không bao nhiêu.
3. Biết chẳng bao nhiêu mà tự kiêu tự mãn. 
4. Trí thức uyên thâm mà lại thiếu đức độ.
5. Chỉ đạt lý mà không thấu tình.
6. Làm việc mà không xem tình hình, không xét hậu quả.
7. Thông minh tài trí nhưng lại sống ích kỷ, hẹp hòi.
8. Học nhiều, đọc nhiều mà thiếu suy tư nghiền ngẫm. 
9. Chỉ nghe biết mà không truy tìm, tra cứu, điều nghiên.
10. Nhai lại tư tưởng người khác mà không khai sáng tư tưởng mình. 
11. Chỉ dựa vào sách vở và lý thuyết mà không có kinh nghiệm thực tế. 
12. Thấy chi tiết mà không thấy tổng quát.
13. Muốn động tay động chân mà không muốn động não.
14. Hiểu biết nhiều nhưng không biết điều chính yếu. 
15. Hiểu biết nhiều nhưng không sát, không sâu.
16. Hiểu biết mau nhưng không nguồn, không ngọn.
17. Hiểu biết nhiều mà không biết những điều mình phải biết. 
18. Hiểu biết nhiều mà không biết những điều mình không được phép biết.
19. Hiểu biết nhiều mà không biết sống yêu thương.
20. Hiểu biết sâu xa về nhiều thứ nhưng lại hiểu biết cạn cợt về Thiên Chúa.

Những lối sống trên đây luôn nằm trong tình trạng nguy hiểm. Nhưng hiểm nguy lớn nhất là tôi không nhận ra mình đang trong tình trạng nguy hiểm. Sống tỉnh thức là nhận thấy nguy hiểm do sự thiếu quân bình và cân đối trong đời sống mình về mọi mặt. Chỉ một chút quá đà sẽ gây ra hư hại khó lường. Chỉ một chút hụt hẫng sẽ rơi vào cảnh trống vắng nội tâm, dễ bị ma quỷ khống chế và thống trị. 

Thật vậy:
Quỷ thấy nhà bỏ trống, lại được quét tước trang hoàng hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy còn tệ hơn trước(Mt 12,44-45).

Lm. Thái Nguyên