30 thg 11, 2014
Người giữ cửa (30.11.2014 – Chúa nhật 1 Mùa Vọng năm B)
Có bao nhiêu thời gian sống ở đời
Mùa vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi.
Nếu không có Ai để chờ, thì cũng chẳng cần tỉnh thức.
Ma túy là mối đe dọa giới trẻ hôm nay.
Mùa Vọng là mùa tỉnh thức,
Lạy Chúa Giêsu,
Ước gì con được tỉnh táo
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,
29 thg 11, 2014
Chúa Nhật I Mùa Vọng - Năm B
Tin Mừng Mc 13,33-37
Hôm ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”Sunday I of Advent - Year B
Gospel Mc 13,33-37
Jesus said to his disciples:
"Be watchful! Be alert!
You do not know when the time will come.
It is like a man traveling abroad.
He leaves home and places his servants in charge,
each with his own work,
and orders the gatekeeper to be on the watch.
Watch, therefore;
you do not know when the Lord of the house is coming,
whether in the evening, or at midnight,
or at cockcrow, or in the morning.
May he not come suddenly and find you sleeping.
What I say to you, I say to all: 'Watch!'"
"Be watchful! Be alert!
You do not know when the time will come.
It is like a man traveling abroad.
He leaves home and places his servants in charge,
each with his own work,
and orders the gatekeeper to be on the watch.
Watch, therefore;
you do not know when the Lord of the house is coming,
whether in the evening, or at midnight,
or at cockcrow, or in the morning.
May he not come suddenly and find you sleeping.
What I say to you, I say to all: 'Watch!'"
Phải đề phòng (29.11.2014 – Thứ bảy Tuần 34 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 21, 34-36
Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đử sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”
Suy niệm:
Tháng 9-2009, Tổng Thống Nga Medvedev
gọi nạn nghiện rượu là quốc nạn.
Mỗi năm tính bình quân mỗi người dân uống khoảng 18 lít,
gấp đôi lượng rượu được coi là nguy hiểm cho sức khỏe.
Nửa số người Nga chết giữa khoảng 15-54 tuổi là do hậu quả của rượu.
Trẻ em và phụ nữ cũng nghiện.
Tuổi thọ trung bình của đàn ông chỉ còn là 59.
Vì nhiều người chết nên dân số Nga sụt giảm mỗi năm.
Làm gì để cai nghiện cho hơn hai triệu người Nga,
đó là chuyện nhức đầu cho các nhà lãnh đạo.
Nhưng tại sao người ta lại bị nặng nề bởi rượu Vodka?
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta
về những thứ nặng nề đè trên trái tim người Kitô hữu.
Trong khi chờ đợi Chúa đến vào thời điểm không đoán trước được,
chúng ta có thể bị vướng vào những thú vui buông thả.
Sống bừa bãi, phóng túng, nhậu nhẹt, say sưa,
đó vẫn là cám dỗ muôn thuở của thân xác.
Chỉ cần đi một vòng thành phố hay các vùng quê vào ban đêm,
chúng ta thấy ngay cả một thế giới của ăn uống, hưởng thụ.
Nhưng trái tim con người còn có thể trở nên nặng nề
bởi những lo âu trần thế (x. Lc 8, 14).
Làm sao nhà cửa có thêm tiện nghi? làm sao thêm lương và lên chức?
Những nỗi lo toan về cuộc sống vật chất vắt kiệt con người,
khiến con người không còn khả năng mở ra trước Chúa và tha nhân.
Con người giàu lên, nhưng lại thấy mình bất hạnh và gia đình đổ vỡ.
Mỗi năm ba mươi ngàn người chết vì tự tử ở Nhật.
Trái tim nặng nề nên nhiều người mắc bệnh tim mạch.
Trái tim bị kéo xuống cái thực dụng tầm thường ở trên mặt đất,
nên con người bị còng xuống, không ngước lên được điều trên cao.
Ngày Chúa đến như một bất ngờ, như một cái bẫy sập xuống,
không phải chỉ trên người Do Thái,
nhưng trên mọi dân cư ở khắp mặt địa cầu (c. 35).
Cả thế giới phải chịu phán xét chẳng trừ ai.
Bởi đó thái độ cần có mỗi ngày của người môn đệ
là luôn luôn thức tỉnh và cầu nguyện,
để có sức mà thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra (c. 36).
Để chuẩn bị cho cái chung cục, thì phải sống đều đặn cái hàng ngày.
Làm sao để khi Con Người là Đức Giêsu trở lại trên mây trời,
Ngài thấy chúng ta đang ở tư thế đứng thẳng,
không phải xấu hổ cúi đầu, không bị ràng buộc bởi đam mê,
nhưng vui sướng vì mình đã không uổng công chờ đợi.
Có những lo âu vẫn chi phối tôi làm tôi nặng lòng.
Có những mê đắm kéo ghì tôi xuống và bắt tôi làm nô lệ.
Mùa Vọng sắp đến mời tôi tỉnh thức và cầu nguyện, để đứng lên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào…
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
27 thg 11, 2014
Xem cây vả (28.11.2014 – Thứ Sáu Tuần 34 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 21, 29-33
Khi ấy, 29 Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: “Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác.30 Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần rồi.31 Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.32 Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.33 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
Suy niệm:
Cây vả là một cây rất thường thấy ở xứ Paléttin.
Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè.
Rồi thì nó sẽ ra hoa và kết trái.
Không phải chỉ có cây vả, mọi cây khác cũng vậy (c.29).
Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều gì sắp xảy đến.
Nước Thiên Chúa cũng vậy.
Trước khi Nước Thiên Chúa đến sẽ có những dấu hiệu
ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển khơi.
Đức Giêsu đã nhắc cho ta về những dấu hiệu đó (Lc 21, 11. 25-26).
Khi bắt đầu đi rao giảng cách đây hai ngàn năm,
Đức Giêsu tuyên bố: Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mc 1, 15).
Và Nước ấy đã được khai mạc với chính con người Đức Giêsu.
Lời nói và việc làm của Ngài đã mở ra Nước ấy trên mặt đất.
Như hạt giống, Nước ấy đã không ngừng lớn lên cả ngày lẫn đêm,
đã ảnh hưởng mạnh mẽ như nhúm men trong đống bột,
và đã phải chịu sự tấn công của kẻ thù gieo cỏ lùng vào giữa lúa.
Với sự phục sinh của Đức Giêsu, Nước ấy chắc chắn sẽ đến.
Chắc chắn Nước Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang,
dù chúng ta không biết rõ khi nào, tuy sẽ có những điềm báo trước.
Ngày Nước Thiên Chúa đến cách huy hoàng trên trái đất
sẽ là ngày tận thế, ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét mọi người.
Kitô hữu là người tin vào lời Đức Giêsu.
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua” (c. 33).
Chúng ta chờ đợi, vì chúng ta tin Đức Giêsu sẽ trở lại.
Sau hai ngàn năm chờ đợi và nỗ lực dựng xây,
ngày Đức Giêsu quang lâm đã gần hơn nhiều.
Biết đâu câu nói sau của Đức Giêsu
lại chẳng ứng nghiệm cho chính thế hệ chúng ta:
“Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.” (c. 32).
Không được để mình nguội lạnh và mất đi thái độ chờ đợi.
Không được để chiến thắng tạm thời của sự dữ ở đâu đó
khiến chúng ta mất đi lòng tin,
và những bách hại khiến ta mất đi lòng kiên trì cần thiết (Lc 21, 19).
Nước Thiên Chúa vẫn đến gần hơn mỗi ngày.
Không thiếu dấu chỉ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta phải thấy có biết bao dấu chỉ tích cực, đầy hy vọng,
ngay giữa những khi tưởng như Nước ấy bị xóa sổ, loại trừ.
Đừng để mình rơi vào thái độ bi quan, khoanh tay vì chán nản.
Phải làm sao để ngày tận thế không phải là một ngày buồn,
ngày của những đổ vỡ và mất mát chia ly.
Phải làm sao để ngày ấy là ngày lịch sử nhân loại mở sang trang mới.
Đức Giêsu xuất hiện như Điểm Ômêga, Điểm đến của cả vũ trụ.
Con người và cả vũ trụ đều được hưởng ơn cứu chuộc (Rm 8, 19-23),
và Thiên Chúa Cha được tôn vinh.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
CHUYỆN KHÓ NGHĨ
Thỉnh thoảng gia đình, người thân chia sẻ, trao đổi với nhau về cuộc sống.
Lòng người hết sức tự nhiên sẽ chạnh thương khi thấy những người nghèo sống thiếu thốn hay bị đẩy ra bên lề của cuộc sống.
Cách đây vài hôm, như mọi lần thăm hỏi, người cô vào đề ngay trước khi chia sẻ về cuộc sống đó là chuyện cô đọc được thông tin của một sinh viên nghèo nào đó phải bỏ học vì không có tiền đóng học phí. Cô tìm địa chỉ để liên lạc chia sẻ nhưng chỉ biết tên của người sinh viên đó, ngoài ra không biết gì hơn về địa chỉ hay số điện thoại để liên lạc.
Cô kể ra và tôi nghe. Nghe tôi cũng đành chịu bởi lẽ cái biển người nghèo chạy ăn từng bữa và thiếu trước hụt sau quá nhiều. Chưa lo đủ cái ăn làm sao lo đến chuyện học nên dù có đậu đại học đi chăng nữa nhưng cổng trường còn ở thật xa với những người nghèo.
Những người tha hương cầu thực quá vất vả để lo toan cho cuộc sống. Thế nhưng, khi rảnh rỗi, họ đọc tin tức và đâu đó bất chợt gặp những hoàn cảnh khó khăn lòng của họ lại hướng về với những người nghèo, những người kém may mắn để sẻ chia.
Đây
không phải là lần đầu tiên gặp những người có thiện ý sẻ chia như vậy.
Nhiều lần nhiều lúc người thân cũng đã dò đến địa chỉ để sẻ chia dẫu
rằng sự sẻ chia đó quá ít so với nhu cầu thực tế của những người nghèo.
Nhưng, dù sao đi chăng nữa người nghèo cũng nhận được chút tấm lòng của
người đồng loại.Với những người thân quen, với những tấm lòng chạnh
thương là như vậy. Họ cũng phải đi cày, họ cũng phải quá vất vả để đi
kiếm tiền nhưng họ tằn tiện để giúp những người đồng loại kém may mắn.
Trở về với thực tại của cuộc sống, không phải những ngày này nhưng quá khứ cũng đã có những câu chuyện buồn của cuộc sống. Những câu chuyện buồn đó là những đồng tiền được người ta chuyền tay nhau chi dùng một cách vô tội vạ. Số tiền đó không phải nhỏ. Người ta đem quy ra đầu người thì số nợ đó thật kinh khủng.
Chẳng
phải là nhà kinh tế, cũng chẳng phải là nhà nghiên cứu nhưng nhìn thực
tại sao mà đau lòng. Khi nhìn những con số ngàn ngàn tỷ mà người ta vung
vít nó làm sao đó so với những nhu cầu nhỏ bé của những con người
nghèo.
Cách
đây không lâu, chuyện cậu bé đậu đại học nhưng người cha phải tá túc
trong ống cống với nghề bơm vá xe và người mẹ làm thuê làm mướn thật đau
lòng. Với ý chí, với nghị lực, cậu bé đã đủ điểm vào đại học nhưng cổng
trường khép lại vì gia đình quá nghèo. Thật may mắn đến với cậu khi có
gia đình kia mời gia đình của cậu về ở trong một phòng của gia đình và
đồng thời quản lý các phòng trọ khác của gia đình để có kế sinh nhai và
đắp đổi qua ngày.
Nghịch lý là đứng trước những cảnh nghèo như thế, những người nghèo lại mở lòng và đùm bọc lẫn nhau trong khi những người khác lại cứ thoải mái "đưa tiền ra cửa sổ". Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày một tăng khi người ta đánh mất quân bình của thu nhập. Người nghèo cảm thấy đuối khi phải lăn lộn với cuộc sống hàng ngày.
Ta
thấy nghịch lý và mâu thuẫn khi số tiền bạc tỷ nhảy múa trong tay những
người trục lợi để rồi những người nghèo chỉ mong có số lẻ như thế để
đắp đổi qua ngày.
Dĩ
nhiên trong xã hội nào cũng thế, cũng có những chuyện này chuyện kia
trong đầu tư hay quản lý. Thế nhưng, khi những đồng tiền do công sức của
người dân đóng góp lại chảy vào túi của những người nào đó, của nhóm
người nào đó thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Và, khi khoảng
cách giữa giàu nghèo ngày một tăng thì lại nảy sinh ra nhiều chuyện đau
đầu cho con người và xã hội.
Qua
các phương tiện thông tin đại chúng, người dân không thể nào nghĩ ra
được số tiền khổng lồ như thế mà nó cứ vui vẻ "nhảy múa và hát ca" trong
tay của một số người.
Vài
tỷ với một gia đình cũng chỉ là niềm mơ ước mà cả đời chẳng bao giờ có
được. Nói gì đến tiền tỷ cho cam. Chỉ cần vài trăm triệu để mua căn nhà ở
với mức bình dân trong xã hội hiện tại nhưng nằm mơ cũng chẳng hề có.
Dẫu rằng không nghĩ ra nhưng rồi nó vẫn xảy ra. Những điều khó nghĩ đã
xảy ra và để lại hậu quả tổn thấy vô cùng to lớn cho con người và xã
hội.
Mới
đây thôi, khi đoạn đường cao tốc nọ chưa kịp khánh thành thì đã phát
hiện ra những điều thật khó nghĩ. Số tiền chạy ra khỏi công trình quá
lớn so với số tiền thực tế để thi công. Và như vậy, chất lượng của con
đường cũng sẽ chỉ đạt được với số tiền thực sự bỏ ra. Tất cả những thiệt
hại như thế lại cứ phải đổ lên đầu của những người dân đen nghèo khổ.
Không phải người ta không biết hậu quả để lại khi người ta làm như thế
nhưng vì lý do nào đó thật khó hiểu và cũng chẳng ai lý giải được. Chỉ
biết là ngày mỗi ngày cuộc sống càng thêm những gánh nặng của khó khăn,
của bế tắt khi tìm kế sinh nhai.Và,
cũng qua những phương tiện thông tin đại chúng, còn có quá nhiều người
nghèo chạy ăn từng bữa phải đương đầu với cuộc sống. Cánh cửa bước vào
đời của những con người nghèo ngày càng hẹp lại và những lắng lo của
cuộc sống ngày càng lớn. Thương thay cái phận nghèo.
Khi cuộc sống có quá nhiều điều khó nghĩ thì khi ấy càng nhiều điều phải lắng lo.Vẫn là những trăn trở về những mảnh đời khó nghèo và chật vật phải đương đầu với cuộc sống ngày một khó khăn.
Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.
26 thg 11, 2014
Sắp được cứu chuộc (27.11.2014 – Thứ năm Tuần 34 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 21, 20-28
20 “Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành.21 Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành.22Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm. 23 Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! “Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này. 24 Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại. 25 “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”
Suy niệm:
Theo Josephus, một sử gia người Do Thái đáng tin cậy,
bốn quân đoàn của vị tướng Rôma là Titus
đã vây hãm thành phố Giêrusalem vào lễ Vượt Qua năm 70,
khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng cực.
Ông kể chuyện một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá đói
đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn.
Cũng theo sử gia này, quân Rôma đã dùng gươm
để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê.
Những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần một trăm ngàn.
bốn quân đoàn của vị tướng Rôma là Titus
đã vây hãm thành phố Giêrusalem vào lễ Vượt Qua năm 70,
khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng cực.
Ông kể chuyện một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá đói
đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn.
Cũng theo sử gia này, quân Rôma đã dùng gươm
để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê.
Những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần một trăm ngàn.
Ai có thể tưởng được điều khủng khiếp như vậy đã xảy ra
chỉ bốn mươi năm, sau khi Đức Giêsu nói những lời tiên báo.
Giêrusalem là thành trì vững chắc, nơi trú ẩn an toàn,
bây giờ lại là nơi nguy hiểm, cần phải tránh xa (c. 21).
Tai họa ập xuống trên phụ nữ mang thai và cho con bú (c. 23).
trên cả tội nhân lẫn trẻ thơ vô tội.
Thành đô đã bị bao vây, bị thiêu rụi, bị quân Rôma giày xéo.
Dân thành bị ngã gục, bị đi đày, phải tản mác khắp nơi.
chỉ bốn mươi năm, sau khi Đức Giêsu nói những lời tiên báo.
Giêrusalem là thành trì vững chắc, nơi trú ẩn an toàn,
bây giờ lại là nơi nguy hiểm, cần phải tránh xa (c. 21).
Tai họa ập xuống trên phụ nữ mang thai và cho con bú (c. 23).
trên cả tội nhân lẫn trẻ thơ vô tội.
Thành đô đã bị bao vây, bị thiêu rụi, bị quân Rôma giày xéo.
Dân thành bị ngã gục, bị đi đày, phải tản mác khắp nơi.
Sự sụp đổ của thành đô đã là một biến cố trên đất Ítraen.
Nhưng trước khi Đức Giêsu ngự đến trên mây trời
như Con Người đầy quyền năng và vinh hiển (c. 27),
sẽ có những dấu lạ đáng sợ khác trên bầu trời và ngoài biển cả (c. 25).
Thánh Máccô nói đến hiện tượng mặt trời, mặt trăng mất sáng,
và các vì sao sa xuống từ trời (Mc 13, 24-25).
Thánh Luca nói đến cảnh biển gào, sóng thét.
Những điều đó làm muôn dân hoang mang, hồn xiêu phách lạc,
nhưng không làm các môn đệ hoảng hốt, âu lo.
Ngược lại họ mừng vui vì Đấng họ chờ đợi từ lâu nay đã đến.
“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (c. 28).
Đứng thẳng để đón Đấng mà họ đã suốt đời thắp đèn chờ đợi.
Ngẩng đầu để mừng giây phút ơn cứu chuộc đã đến gần.
Chỉ khi Đức Giêsu phục sinh trở lại như Đấng xét xử quyền năng,
Ngài mới trọn vẹn hoàn thành Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Nhưng trước khi Đức Giêsu ngự đến trên mây trời
như Con Người đầy quyền năng và vinh hiển (c. 27),
sẽ có những dấu lạ đáng sợ khác trên bầu trời và ngoài biển cả (c. 25).
Thánh Máccô nói đến hiện tượng mặt trời, mặt trăng mất sáng,
và các vì sao sa xuống từ trời (Mc 13, 24-25).
Thánh Luca nói đến cảnh biển gào, sóng thét.
Những điều đó làm muôn dân hoang mang, hồn xiêu phách lạc,
nhưng không làm các môn đệ hoảng hốt, âu lo.
Ngược lại họ mừng vui vì Đấng họ chờ đợi từ lâu nay đã đến.
“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (c. 28).
Đứng thẳng để đón Đấng mà họ đã suốt đời thắp đèn chờ đợi.
Ngẩng đầu để mừng giây phút ơn cứu chuộc đã đến gần.
Chỉ khi Đức Giêsu phục sinh trở lại như Đấng xét xử quyền năng,
Ngài mới trọn vẹn hoàn thành Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Vào cuối năm phụng vụ, Lời Chúa nói với chúng ta về ngày tận thế.
Đó là ngày vừa đáng sợ, vừa chan chứa niềm vui,
ngày được gặp mặt Đấng chúng ta đã tin tưởng, mến yêu và hy vọng.
Người ta vẫn hay đoán già đoán non về ngày tận thế.
Nhiều người tưởng là năm 2000, gần đây có người lại nói là 2012.
Điều quan trọng là làm sao tôi có thể đứng thẳng, ngẩng đầu khi Ngài đến,
làm sao nhân loại trên trái đất này sẵn sàng ra nghênh đón Ngài
như đón Đấng Cứu Tinh mà họ nóng lòng chờ đợi.
Nếu ngày mai Ngài đến với cả thế giới hay đến với riêng mình tôi,
tôi có sẵn sàng chưa hay còn bị còng lưng, cúi đầu vì bao gánh nặng?
Mỗi người đều có ngày tận thế của mình. |
Xin cho tôi được bình an khi ngày ấy đến mà không có điềm lạ nào báo trước.
Đó là ngày vừa đáng sợ, vừa chan chứa niềm vui,
ngày được gặp mặt Đấng chúng ta đã tin tưởng, mến yêu và hy vọng.
Người ta vẫn hay đoán già đoán non về ngày tận thế.
Nhiều người tưởng là năm 2000, gần đây có người lại nói là 2012.
Điều quan trọng là làm sao tôi có thể đứng thẳng, ngẩng đầu khi Ngài đến,
làm sao nhân loại trên trái đất này sẵn sàng ra nghênh đón Ngài
như đón Đấng Cứu Tinh mà họ nóng lòng chờ đợi.
Nếu ngày mai Ngài đến với cả thế giới hay đến với riêng mình tôi,
tôi có sẵn sàng chưa hay còn bị còng lưng, cúi đầu vì bao gánh nặng?
Mỗi người đều có ngày tận thế của mình. |
Xin cho tôi được bình an khi ngày ấy đến mà không có điềm lạ nào báo trước.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào…
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào…
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Một sợi tóc (26.11.2014 – Thứ tư Tuần 34 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 21, 12-19
Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và: “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu.” Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện. Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Ðó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.”
Suy niệm:
Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng 11 năm 1989, tại nước El Salvador, một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào Đại Học Trung Mỹ. Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người nấu ăn. Giết xong chúng đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ. Các linh mục này đều là những nhà trí thức, có ảnh hưởng trong xã hội. Họ muốn nói lên tiếng nói của người nghèo, chịu cảnh bất công, muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70 ngàn người chết. Họ đã phải trả giá bằng vụ thảm sát bất ngờ, đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới. Chuyện ấy đã xảy ra cách đây hai mươi năm rồi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về những cuộc bách hại xảy ra trước khi Ngài trở lại trong ngày tận thế. Các môn đệ sẽ phải chịu những gì Thầy mình đã chịu. Họ sẽ bị bắt, bị ngược đãi, bị tù đày, bị đem ra tòa đạo, tòa đời (c. 12). Họ sẽ bị nộp bởi chính người thân, bị mọi người thù ghét, và thậm chí bị giết hại (cc. 16.17). Tất cả những gì các môn đệ phải chịu đều là vì danh Thầy (cc. 12. 17).
Chính tình yêu trung tín đối với Thầy và giáo huấn của Thầy đã khiến bao Kitô hữu tự nguyện đón nhận khổ đau và cái chết. Không phải chỉ chối Thầy cách công khai mới mang tội bất trung. Không phải chỉ bước qua thập giá mới là phản bội. Bất cứ khi nào chúng ta bước qua những giá trị ngàn đời của Kitô giáo, như sự thật, sự sống, công bằng, bác ái, nhân phẩm, tự do, lương tâm, khi ấy chúng ta chối bỏ Đức Kitô Giêsu. Bất cứ khi nào chúng ta dám xả thân để sống cho những giá trị đó, chúng ta đã làm chứng cho Ngài rồi. Gioan Tẩy Giả đã chết vì nói sự thật mất lòng với Hêrôđê. Maria Goretti đã chết vì muốn sống trong sạch. Maximilien Kônbê đã xin chết thay cho người khác vì lòng bác ái. Tất cả đều được Giáo Hội tôn kính như những vị tử đạo, dù họ không chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu.
Đối với Đức Giêsu, giây phút đứng trước tòa là giây phút quan trọng. Người môn đệ có cơ hội công khai làm chứng cho Thầy (c. 13). Đức Giêsu không để họ một mình đối diện với sức mạnh của quyền uy. Ngài hứa sẽ giúp họ trả lời những cáo buộc của tòa án (c. 15; Cv 6, 10). Thế nên họ chẳng có gì phải xao xuyến, lo âu (c. 14). Tòa án trở thành nơi làm chứng tuyệt vời của người môn đệ. Điều quan trọng khi bị bách hại là phải kiên trì (c. 19). Có nhiều kiểu hành hạ nhằm làm cho người môn đệ bỏ cuộc. Nhưng một sợi tóc anh em cũng không bị mất (c. 18) nghĩa là Chúa sẽ lo từng li từng tí cho môn đệ của mình. Mạng sống của các môn đệ ở đời này có thể bị mất (c. 16), nhưng nếu họ kiên trì và trung tín, họ sẽ giữ được nó ở đời sau. Chúng ta cầu cho nhau được ơn kiên trì giữa thử thách của thời đại mới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
25 thg 11, 2014
Anh em làm chứng cho Thầy (25.11.2014 – Thứ ba Tuần 34 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 21, 5-11
Nhân có mấy người nói về Ðền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Ðức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?” Ðức Giêsu đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục đâu.” Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.”
Suy niệm:
Trong số 117 vị Tử Ðạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,
có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.
Ðó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Ðê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo,
bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,
sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.”
Ðó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.
Ðó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Ðê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo,
bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,
sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.”
Ðó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Ðê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,
quan Tổng Ðốc Nam Ðịnh cho quân bao vây làng của bà.
Bà Ðê bị bắt lúc đã 60 tuổi.
Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,
bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
“Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,
mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,
quan Tổng Ðốc Nam Ðịnh cho quân bao vây làng của bà.
Bà Ðê bị bắt lúc đã 60 tuổi.
Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,
bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
“Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,
mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Ðịnh cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Ðê đã phó mặc cho Chúa đời mình.
Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,
vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Ðịnh cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Ðê đã phó mặc cho Chúa đời mình.
Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,
vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,
dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống,
nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống,
nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,
trước thập giá của Ðức Giêsu,
y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo
gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy
cho hơn 80 triệu đồng bào trên quê hương.
trước thập giá của Ðức Giêsu,
y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo
gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy
cho hơn 80 triệu đồng bào trên quê hương.
Cầu nguyện:
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
24 thg 11, 2014
Vì danh Thầy (24.11.2014 – Lễ các thánh Tử đạo Việt Nam)
Lời Chúa: Lc 9, 21-25
23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?26
Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì
kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các
thánh thiên thần.
Suy niệm:
Trên con đường Nguyễn Trãi thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh,
con đường của những cửa hiệu thời trang cao cấp san sát nhau,
có một ngôi nhà nằm lùi vào và bị che bởi căn nhà bên cạnh,
căn nhà mang số 47 B.
Ngoài sân, một trụ bia ghi dòng chữ bằng tiếng Latinh được dịch như sau :
“Tại đây, vì lòng tin vào Đức Kitô,
Đấng Đáng kính Matthêu Lê văn Gẫm đã bị xử trảm,
ngày 11 tháng 5 năm 1847.”
Trong nhà, có trưng bày một phần của chiếc gông
mà thánh nhân phải mang từ khám đường Chợ Quán
đến chỗ Cây Da Còm thuộc họ Chợ Đũi, chính là nơi tọa lạc căn nhà này.
Nhìn chiếc gông dài hai mét,
chúng ta khó tưởng tượng được làm sao một người mang nổi.
Cái gông đè nặng trên cổ, trên vai, triền miên gây khó chịu đau đớn.
Ngày xưa Đức Giêsu vác thánh giá lên Đồi Sọ.
còn các vị tử đạo Việt Nam mang gông ra pháp trường.
Cái chết của Thánh Gẫm là kết quả của một chọn lựa nghiêm chỉnh.
Ông lái Gẫm là người quen nghề sông nước,
vì thế ông được nhờ đưa đón các linh mục, chủng sinh đi du học.
Năm 1846, Ông được sai đi Singapore để đón về Việt Nam
một giám mục, một linh mục và ba chủng sinh.
Ông linh cảm thấy chuyến đi này sẽ gặp nạn,
nhưng Ông vẫn vâng phục lên đường, liều hy sinh mạng sống.
Ông lái Gẫm đã bị bắt, bị tra khảo, nhưng Ông không thoái lui.
“Quan tha thì tôi nhờ, giết thì tôi chịu.
Tôi là người có đạo từ thuở bé, tôi không bỏ đạo.”
Ông Matthêu Gẫm đã đón cái chết với một niềm vui lạ lùng.
Đến nơi xử, Ông bịt khăn màu xanh như đi dự tiệc.
Ông đùa với những người lính, an ủi những phụ nữ khóc thương Ông.
Ông dâng mạng sống lúc mới ngoài ba mươi.
Ông lái Gẫm đã được tôn phong hiển thánh: Thánh Matthêu Gẫm.
Nhìn ngắm cái gông của Thánh Gẫm, chúng ta thấy cái giá phải trả
để làm chứng cho Đức Giêsu trước mặt vua quan và dân ngoại.
Để làm chứng cho con người hôm nay về Đức Giêsu,
chúng ta cũng phải trả giá không kém.
Cần tìm ra những cách thức phù hợp để lời chứng có tính thuyết phục.
Giữa một thế giới tham lam, mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng, siêu thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa, dối trá,
xin được sống chân thật, đơn sơ.
Giữa một thế giới phóng túng, trụy lạc,
xin được sống điều độ, thanh khiết.
Giữa một thế giới hận thù, tuyệt vọng, dửng dưng,
xin được sẻ chia tình yêu thương, an bình và hy vọng.
Cầu nguyện:
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
23 thg 11, 2014
Vì xưa ta đói (23.11.2014 – CN 34 TN: Lễ Đức Giêsu Kitô Vua Vũ trụ)
Lời Chúa: (Mt 25, 31-46)
Hôm ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: 31 “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. 32Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. 33 Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.
34 Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36 Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”.
37 bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; 38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? 39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” 40 Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
41 Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”.
44 Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” 45 Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”. 46 Thế là họ sẽ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời”.
Suy Niệm
TÊRÊSA Calcutta là người mê và sống đoạn Tin Mừng này.
Bà bị cuốn hút bởi những người đau khổ.
Dưới mắt bà, đó không chỉ là những người đáng thương,
mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đau khổ.
Tình yêu con người và tình yêu Chúa Giêsu quyện vào nhau.
Vì yêu Ngài, nên bà yêu con người mãnh liệt hơn.
“Tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người,
dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa.”
Bà bị cuốn hút bởi những người đau khổ.
Dưới mắt bà, đó không chỉ là những người đáng thương,
mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đau khổ.
Tình yêu con người và tình yêu Chúa Giêsu quyện vào nhau.
Vì yêu Ngài, nên bà yêu con người mãnh liệt hơn.
“Tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người,
dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa.”
Ðoạn Tin Mừng này được chọn đọc vào Chúa Nhật hôm nay,
vì ở đây Chúa Giêsu được mô tả như một vị Vua,
có thiên sứ theo hầu, ngồi trên ngai vinh hiển.
Ngài là Thẩm phán xét xử muôn dân,
tách biệt kẻ lành người dữ, thưởng phạt công minh.
Nhưng phán quyết của Ngài làm ai nấy kinh ngạc.
Người ta được chúc phúc hay bị nguyền rủa
dựa trên những việc họ đã làm hay không làm cho Ngài,
mà họ không hề hay biết.
Vua Giêsu chẳng ở đâu xa, chẳng ở cung vàng điện ngọc.
Ngài ở trong những người cùng khốn.
Vua Giêsu đồng hoá mình với những người đói khát,
khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù
mà chúng ta vẫn gặp mỗi ngày.
vì ở đây Chúa Giêsu được mô tả như một vị Vua,
có thiên sứ theo hầu, ngồi trên ngai vinh hiển.
Ngài là Thẩm phán xét xử muôn dân,
tách biệt kẻ lành người dữ, thưởng phạt công minh.
Nhưng phán quyết của Ngài làm ai nấy kinh ngạc.
Người ta được chúc phúc hay bị nguyền rủa
dựa trên những việc họ đã làm hay không làm cho Ngài,
mà họ không hề hay biết.
Vua Giêsu chẳng ở đâu xa, chẳng ở cung vàng điện ngọc.
Ngài ở trong những người cùng khốn.
Vua Giêsu đồng hoá mình với những người đói khát,
khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù
mà chúng ta vẫn gặp mỗi ngày.
Ngài ẩn mình hay đúng hơn Ngài tỏ mình qua con người,
qua những người hèn kém đáng thương nhất.
Chúa vinh quang không ngại nhận họ là anh em.
Ngài không khoác tấm áo lộng lẫy kiêu sa
để dễ gần gũi với nỗi đau của người yếu thế.
Như thế chúng ta không phải tìm Chúa ở nơi xa xôi.
Ngài không chỉ ở trong nhà thờ, trong bí tích.
Ngài còn ở nơi những người đang cần chúng ta.
Mỗi người khốn cùng đều là một bí tích,
nơi chúng ta có thể thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu.
Có những lần Chúa đi ngang qua đời ta
như vị vua giả trang làm người hành khất.
Ngày phán xét, chúng ta không được giả vờ ngạc nhiên
khi nghe biết mình đã để Ngài đi qua tay trắng.
“Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên tình yêu.”
Tội lớn nhất là tội thiếu sót: không làm điều phải làm.
qua những người hèn kém đáng thương nhất.
Chúa vinh quang không ngại nhận họ là anh em.
Ngài không khoác tấm áo lộng lẫy kiêu sa
để dễ gần gũi với nỗi đau của người yếu thế.
Như thế chúng ta không phải tìm Chúa ở nơi xa xôi.
Ngài không chỉ ở trong nhà thờ, trong bí tích.
Ngài còn ở nơi những người đang cần chúng ta.
Mỗi người khốn cùng đều là một bí tích,
nơi chúng ta có thể thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu.
Có những lần Chúa đi ngang qua đời ta
như vị vua giả trang làm người hành khất.
Ngày phán xét, chúng ta không được giả vờ ngạc nhiên
khi nghe biết mình đã để Ngài đi qua tay trắng.
“Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên tình yêu.”
Tội lớn nhất là tội thiếu sót: không làm điều phải làm.
Hôm nay Vua Giêsu vẫn ngửa tay
xin ta giúp các anh em bé mọn nhất của Ngài.
Những người mù chữ, những trẻ em đường phố,
những người bị suy sụp tinh thần, cần được yêu thương,
những người không tìm được cho đời mình một chỗ trọ,
những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê,
những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác.
Phải làm một việc gì đó cụ thể
để Nước Chúa lớn lên trong thế giới này.
Phải xây dựng một điều tốt đẹp nào đó
để Vua Giêsu thật sự là Vua Vũ Trụ,
vũ trụ bên ngoài và vũ trụ trong lòng con người.
xin ta giúp các anh em bé mọn nhất của Ngài.
Những người mù chữ, những trẻ em đường phố,
những người bị suy sụp tinh thần, cần được yêu thương,
những người không tìm được cho đời mình một chỗ trọ,
những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê,
những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác.
Phải làm một việc gì đó cụ thể
để Nước Chúa lớn lên trong thế giới này.
Phải xây dựng một điều tốt đẹp nào đó
để Vua Giêsu thật sự là Vua Vũ Trụ,
vũ trụ bên ngoài và vũ trụ trong lòng con người.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăn ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăn ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu:
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
về sự dữ trên địa cầu:
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền lòng chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đởi mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền lòng chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đởi mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
22 thg 11, 2014
Đời này, đời sau (22.11.2014 – Thứ bảy Tuần 33 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 20, 27-40
27 Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại.28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết.30 Người thứ hai,31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào.32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết.33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ? “
34 Đức Giê-su đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng,35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp.38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” 39 Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.”40 Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.
Suy niệm:
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.
Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người,
nhưng nói chung ai cũng muốn sống.
Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.
Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người,
nhưng nói chung ai cũng muốn sống.
Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.
Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này
định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.
Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.
Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này
để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này
định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.
Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.
Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này
để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.
Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.
Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.
Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,
và sống như thể chỉ có đời này.
Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.
Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.
Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.
Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,
và sống như thể chỉ có đời này.
Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết
linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.
Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng
đời sau là sự kéo dài của đời này.
Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.
Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng
đời sau là sự kéo dài của đời này.
Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.
Ðời sau khác hẳn đời này.
Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,
nhưng sống như các thiên thần,
nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau khác hẳn đời này.
Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,
nhưng sống như các thiên thần,
nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.
Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.
Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.
Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,
nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu
để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.
Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.
Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,
nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu
để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,
chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cái chết dạy tôi biết cách sống.
Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,
và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau
để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.
Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,
và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cái chết dạy tôi biết cách sống.
Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,
và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau
để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.
Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,
và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi ra thăm nghĩa địa,
khi vào viếng phòng hài cốt,
con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao
mới dám nghĩ một ngày nào đó
những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.
khi ra thăm nghĩa địa,
khi vào viếng phòng hài cốt,
con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao
mới dám nghĩ một ngày nào đó
những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.
Con người trở về bụi tro,
nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,
vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.
nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,
vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
trần gian này quá đẹp
khiến con mải mê, quên mình là lữ khách;
thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.
Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân,
như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.
Xin khơi dậy nơi con
niềm khát khao những điều cao cả.
Xin đừng để con
mãn nguyện với những cái tầm thường.
trần gian này quá đẹp
khiến con mải mê, quên mình là lữ khách;
thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.
Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân,
như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.
Xin khơi dậy nơi con
niềm khát khao những điều cao cả.
Xin đừng để con
mãn nguyện với những cái tầm thường.
Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt của trời cao,
khi con quên mình
để sống cho anh em trên mặt đất.
khi con quên mình
để sống cho anh em trên mặt đất.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)