Đây là Mùa Báo Hiếu, những ai còn mẹ thì được gắn Bông hồng ĐỎ, những ai mất mẹ thì được gắn Bông hồng TRẮNG.
Mỗi
năm đến dịp lễ Vu Lan tôi lại cảm thấy “ghen” với những người còn cha
mẹ – nhất là còn mẹ, vì tôi thấy họ là những người may mắn! Người Trung
quốc xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Người có công trực tiếp với chúng ta
nhất chính là Cha Mẹ: Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc;
Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau
Vu
Lan nhắc nhớ chúng ta về chữ Hiếu mà có lẽ ngày nay có chút gì đó bị lu
mờ. Người Việt nói riêng, và người Á Đông nói chung, rất trọng chữ
Hiếu. Như vậy, Vu Lan là một nét văn hóa đẹp đáng tôn trọng và duy trì.
Điều này hẳn không sai lệch, vì ai trong chúng ta cũng nhờ thừa hưởng từ
cha mẹ mà có hình hài, có thân thể này. Sự trao truyền đó là huyết
thống. Mọi điều hay, dở hoặc tốt, xấu của chúng ta là niềm vui mừng hoặc
đau khổ của cha mẹ. Bổn phận làm con không bao giờ được quên ơn nghĩa
sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ, vì đó là thâm ân, không thể chối
cãi, không thể bác bỏ. Thiết tưởng cũng nên biết một chút về lễ Vu Lan –
vì nhiều người Công giáo có thể chưa biết rõ!
TÍCH XƯA. Bồ tát Mục Kiền Liên là đại hiếu tử, vì ông đã cứu mẹ mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ.
Sau
khi đã chứng quả A La Hán, ông tưởng nhớ và muốn biết mẹ mình thế nào
nên dùng huệ nhãn dò tìm. Thấy mẹ rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị đói
khát, khổ sở, vì đã gây nhiều nghiệp ác, ông đem cơm xuống tận cõi quỷ
để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói lâu nên khi ăn, mẹ ông đã dùng một tay che bát cơm để không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, thế nên khi thức ăn vừa được đưa lên miệng thì lập tức hóa thành lửa đỏ. Quá thương cảm, Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ. Phật dạy: “Dù
ta thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông. Chỉ có
một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu
được. Rằm Tháng Bảy là ngày thích hợp lập trai đàn để cầu siêu,
thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị
này sẽ tuân theo lời dạy của Phật mà chú tâm cầu cho cha mẹ và ông bà
bảy đời của thí chủ được siêu thoát”.
Rằm
Tháng Bảy là ngày chư tăng tự tứ (kết thúc hạ an cư), dùng thức ăn uống
đựng trong bồn Vu Lan cúng dường Tam bảo sẽ được vô lượng công đức, cứu
được cha mẹ 7 đời.
Tôn
giả Mục Kiền Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông
được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng
dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan Bồn Pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan
Bồn Hội (tiếng Phạm là Avalambana), đó là nghi thức cầu siêu độ cho tổ
tiên, ông bà, cha mẹ và thân thuộc nhiều đời, được cử hành vào ngày Rằm
Tháng Bảy âm lịch hàng năm, theo lời Phật dạy trong kinh Vu Lan Bồn. Còn
bộ kinh ghi chép sự tích trên thì gọi là Vu Lan Bồn Kinh.
Theo
Phật Quang Đại từ điển, Vu Lan (tiếng Phạn là Ullalambana), cũng gọi là
Ô-lam-bà-noa. Hán ngữ dịch là Đảo huyền (nghĩa là “treo ngược” – nỗi
khổ của người chết giống như cái khổ của người bị treo ngược, cực kỳ đau
đớn), cũng gọi là Vu Lan Bồn Hội hoặc Bồn Hội.
Và
thế là mỗi năm, khi ngày này đến gần, các phụ nữ trong gia đình lại bận
rộn hơn với công việc chuẩn bị cúng rằm nhớ ơn tổ tiên, lên chùa khấn
cầu Phật phù hộ cho gia đình, cha mẹ được bình an phúc đức. Theo truyền
thuyết Trung quốc, Vũ đế vương nhà Lương là người đầu tiên cử hành hội
Vu Lan Bồn Hội.
Theo
Từ điển Văn hóa Cổ truyền Việt Nam, Vu Lan (bồn) là cái chậu đựng hoa
quả, phẩm vật dâng cúng. Lễ Vu Lan được cử hành vào Rằm Tháng Bảy âm
lịch hàng năm, là lễ dâng các phẩm vật cúng chư tăng đựng trong chiếc Vu
Lan để cầu siêu cho vong hồn người thân thoát khỏi địa ngục. Rằm Tháng
Bảy âm lịch gọi là ngàu vong nhân xá, là ngày các vong hồn được tha tội.
Bởi vậy người ta thường đốt vàng mã cúng gia tiên.
SUY TƯ.
Người nào thấy cha mẹ già có vẻ lẩm cẩm một chút hoặc không văn minh
hiện đại mà xem thường cha mẹ là có tội lớn. Dù cha mẹ lẩm cẩm bao nhiêu
đi nữa, có kém kiến thức hơn mình, hoặc có là gì đi nữa, thì đó vẫn là
những đấng sinh thành đáng kính. Chúng ta phải nhớ rằng bản thân mình là
một phần thân thể cha mẹ, không thể tách rời, không thể đứng riêng, dù
muốn chối bỏ cũng không chối bỏ được. Thân này đã là của cha mẹ mà mình
phụ rẫy, vong ân bội nghĩa thì thật vô lý, không xứng đáng là một con
người, vì một danh nhân đã nói: “Chỉ có ai biết yêu thương mới xứng đáng
nhận danh hiệu con người”. Do đó, lòng hiếu thảo đối với chúng ta là
một chân lý. Trên đời này không có ơn nào cao trọng bằng ơn cha nghĩa
mẹ. Nếu ơn cao nghĩa dày như vậy mà chúng ta quên đi thì những ơn khác
trong xã hội – ơn của bạn bè, tình làng nghĩa xóm, ơn của người vãng
lai,… – làm sao chúng ta có thể biết ơn và đền ơn?
Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính Cha Mẹ” (x. Tb 4:3; Hc 3:8), còn Kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng CÓ HIẾU, tột cùng ác không gì bằng BẤT HIẾU”. Không có gì đối lập, dù đạo hay đời. Thật tuyệt! Sau khi Đức Maria và Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu và “trách yêu”: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48), nhưng
rồi Chúa Giêsu vẫn ngoan ngoãn theo cha mẹ về Nadarét và hằng vâng phục
các ngài (x. Lc 2:51). Vì vậy, lễ Vu lan gợi nhớ tinh thần cao đẹp của
chúng ta dành cho tổ tiên. Nghĩ đến tình thương cha mẹ đối với chúng ta
như thế nào để cố gắng tu thân, cố gắng đền ơn đáp nghĩa “chín đức cù
lao” của song thân phụ mẫu, như thế mới phần nào xứng đáng là người con
có hiếu – dù có thể chúng ta không theo kịp “nhị thập tứ hiếu” (chuyện
24 người con chí hiếu).
Hãy
thắp một nén nhang mỗi tối và cầu nguyện cho những người đã khuất. Đó
vừa là văn hóa vừa là đạo đức và sống đức tin Công giáo vậy!
Trầm Thiên Thu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét