29 thg 12, 2019

Ngày càng lớn lên (30.12.2019 – ngày 6 trong tuần bát nhật Giáng sinh)


Lời Chúa: Lc 2, 36-40 
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm,37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê.40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

Suy nim: 
Khi viết sách Tin Mừng, thánh Luca thích nêu bật vai trò của phụ nữ,
vì trong xã hội Ítraen thời xưa, việc lãnh đạo chủ yếu do đàn ông.
Luca hay đặt sóng đôi những câu chuyện về các nhân vật nam và nữ.
Sau trình thuật sứ thần Gabrien truyền tin cho ông Dacaria,
thì đến trình thuật sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ.
Sau sự xuất hiện của ông già Simêon nói tiên tri về Hài Nhi,
thì bà Anna cũng được giới thiệu minh nhiên như một nữ ngôn sứ.
Làm ngôn sứ đâu phải là đặc quyền dành cho phái nam!

Khuôn mặt của Simêon và Anna có những nét giống nhau.
Cả hai đều là những người tuổi cao và đạo hạnh.
Đời sống của họ gắn bó với Đền thờ.
Riêng cuộc đời của cụ bà Anna thì thật đáng phục.
Cụ xuất giá được bảy năm thì ở góa, nay cụ đã tám mươi tư.
Giả như cụ lấy chồng vào năm mười lăm tuổi,
thì hẳn cụ đã sống trong cảnh góa bụa hơn sáu mươi năm.
Một thời gian dài không có chỗ dựa vững chắc của người chồng.
Nhưng cụ Anna lại tìm thấy một chỗ dựa khác, vững hơn.
Đó là Thiên Chúa mà cụ đêm ngày thờ phượng (c. 37).
Đó là Đền thờ mà cụ coi như nhà của mình.
Đời sống của một góa phụ trẻ, lúc mới ngoài hai mươi, thật không dễ.
Ăn chay cầu nguyện là cách để cụ làm chủ bản thân và thắng cám dỗ.

Simêon và Anna đều là những người cao tuổi đã và đang chờ.
Họ sống để chờ những lời Chúa hứa được thành tựu,
sống để chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem (c. 38).
Anna có biết hôm nay nỗi đợi chờ của cụ được đáp ứng không?
Với trực giác của một ngôn sứ, cụ nhận ra ngay vị Cứu tinh bé nhỏ
đang được bồng ẵm trên tay của đôi vợ chồng nghèo.
Như xuất thần, cụ nói về Hài Nhi cho những người chung quanh.
Không phải chờ nữa, vì ơn cứu chuộc mong mỏi từ lâu nay đã đến.
Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa của Ngài.

Chúng ta đang mừng Lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa làm người.
Chúng ta có ít thời gian để suy niệm về thời gian của Ngài ở Nadarét.
Hơn ba mươi năm để Hài Nhi từ từ lớn lên, trở nên người trưởng thành.
Làm người là chấp nhận lớn lên mỗi ngày một chút về mọi mặt.
Thân xác của cậu Giêsu trở nên mạnh mẽ, trí tuệ cậu đầy khôn ngoan,
và về mặt tâm linh, ân lộc của Thiên Chúa ở trên cậu (c. 40).
Hài Nhi Giêsu đã lớn lên một cách quân bình
để thành Thầy Giêsu đi rao giảng vào lúc ngoài ba mươi.
Con Thiên Chúa cũng phải chăm chỉ học làm người,
qua tha nhân và kinh nghiệm, qua lao động và thách đố trong cuộc sống.
Ngài chia sẻ phận người long đong của chúng ta,
nên Ngài hiểu gánh nặng của phận người.
Xin được học nơi Nadarét về chia sẻ và phục vụ, về tha thứ và yêu thương.
Xin được trở nên người có khả năng dám sống và chết cho người khác.

Cầu nguyn:
Lạy Chúa,xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người – cũng như con –
đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

26 thg 12, 2019

Ông đã thấy và đã tin (27.12.2019 – Ngày 3 trong Tuần Bát nhật Giáng sinh – Thánh Gioan tông đồ, tác giả sách Tin Mừng)


Lời Chúa: Ga 20, 2-8

2
Khi ấy, bà Maria Macđala liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ.4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước.5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó,7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.

Suy nim:

Gioan, ông là ai ?Tôi là một ngư phủ ở hồ Galilê, con ông Dêbêđê, người vùng Bếtsaiđa.
Tôi được Thầy Giêsu gọi khi đang vá lưới với cha trong thuyền (Mc 1, 20).
Tôi là người khá nóng tính, nên có lần đã bực bội và phản ứng mạnh mẽ
khi có người ngoài nhóm trừ quỷ nhân danh Thầy Giêsu (Mc 9, 38).
Cũng có lần tôi định xin lửa bởi trời xuống đốt cháy một làng Samaria
chỉ vì họ không đón tiếp Thầy trò chúng tôi (Lc 9, 54).
Thầy Giêsu gọi hai anh em tôi là con của thiên lôi cũng đúng (Mc 3, 17).
Ngoài ra chúng tôi cũng có nhiều tham vọng khi theo Thầy Giêsu.
Có lần chúng tôi xin Thầy cho hai anh em ngồi hai bên tả hữu (Mc 10, 37).
Tôi biết mình nhiều lần làm cho Thầy buồn,
nhưng Thầy vẫn chịu đựng và yêu mến tôi cách đặc biệt.
Thầy cho tôi được vào số các môn đệ thân tín (Mc 5, 37; 9, 2; 14, 33).

Gioan, ông là ai ?Nếu bạn muốn thì tôi xin tự nhận
tôi là người môn đệ được Thầy Giêsu mến thương.Dĩ nhiên Thầy thương mọi môn đệ,
nhưng tôi vẫn cảm được tình thương đặc biệt Thầy dành cho tôi.
Trong bữa ăn tối, khi Thầy rửa chân cho môn đệ, tôi dám tự hào,
có ai được diễm phúc nằm gần ngực Thầy như tôi (Ga 13, 23. 25; 21, 20).
Tôi đã sống trọn vẹn với Thầy trong những giờ phút vượt qua.
Tôi đã cùng Phêrô vào dinh thượng tế (Ga 18, 15),
và đứng gần bên thập giá của Thầy để đón lời trăng trối (19, 26-27).
Tôi đã nhìn thấy tận mắt mũi giáo đâm cạnh sườn Thầy
khiến máu và nước chảy ra (19, 35).
Tôi cũng là người hốt hoảng chạy đến mộ lúc sáng sớm
khi nghe Maria Mácđala báo tin mất xác Thầy (20, 2).
Nhưng khi đi vào trong mộ, thấy các băng vải quấn xác Thầy còn để đó,
và khăn che đầu được cuốn lại và xếp gọn một bên (20, 7),
tôi được ơn soi sáng để hiểu ngay Thầy đã sống lại (20, 8),
bởi vì tôi chợt nhớ lúc Ladarô được hoàn sinh ra khỏi mồ,
anh còn bị lúng túng trong mớ khăn và băng vải (Ga 11, 44).
Tôi đã thấy và đã tin Thầy của tôi được Thiên Chúa phục sinh,
giải thoát Thầy khỏi phiến đá che mộ và đồ liệm xác vướng víu.
Tôi đã tin dù lần ấy tôi chưa gặp Thầy.
Sau này có lần tôi gặp lại thầy ở Biển Hồ quen thuộc (Ga 21, 2. 7).
Qua một đêm trắng tay, chúng tôi đánh được một mẻ cá lớn bất ngờ,
tôi cũng được ơn nhận ra Thầy trước tiên, và nói với Phêrô: Chúa đó!
Thật ra, tôi cũng chẳng hơn gì anh Phêrô,
nhưng vì Chúa thương tôi, nên đôi khi tôi bén nhậy hơn anh ấy.

Gioan, ông là ai ?Tôi là một ngư phủ vùng Galilê, ít học, ít suy nghĩ chuyện cao siêu.
Nhưng tôi biết mình được một ơn mà nhiều người thèm muốn.
Đó là ơn được sống cận kề với Thầy Giêsu.
Thầy là một mầu nhiệm mà tôi nào có hiểu ngay từ đầu khi ở bên Thầy.
Nhờ được sống lâu, nhờ suy niệm dưới ánh sáng của Thánh Thần,
tôi thấy mình dần dần được đưa vào mầu nhiệm sâu hun hút và lôi cuốn.
Từ từ tôi nhận ra Thầy là ai: Thầy quá lớn lao nhưng lại rất gần gũi.
Tôi tin Thầy là Con Một Thiên Chúa, là Ngôi Lời, mang thần tính như Cha,
nhưng Ngôi Lời ấy đã mang xác thịt yếu đuối như tôi (Ga 1, 14).
Ngài đã ở bên chúng tôi như một người thầy, một người bạn.
Không ai đã thấy Thiên Chúa vinh quang bao giờ,
nhưng chúng tôi đã có thể thấy tận mắt và chiêm ngưỡng (1 Ga 1,1),
và tay chúng tôi có thể chạm đến một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt.
Hạnh phúc khôn tả này, tôi không thể giữ riêng cho mình.
Tôi muốn loan báo cho anh em để hiệp thông và chung vui (1 Ga 1, 3-4).
Tôi muốn làm chứng về mầu nhiệm và muốn viết ra thành sách (Ga 21, 24).
Xin mọi người biết cho rằng mọi điều được viết là xác thực.

Tôi đã không làm chứng bằng cái chết như anh Phêrô,
nhưng tôi làm chứng bằng lời tôi viết.
Dù ai có nói gì về tôi, có ca ngợi về sự biến đổi kỳ diệu nơi tôi,
từ một kẻ nóng tính, háo danh, thô thiển,
đến một người đắm chìm trong chiêm niệm về một tình yêu quá lớn,
tôi cũng chỉ xin mình được mãi mãi nhìn nhận
như người được Thầy Giêsu mến thương.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
Nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
Mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
Và giữa ánh sáng,
Cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
Xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
Xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
Dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
Đối diện với những thách đố
Vì biết rằng cuối cùng
Chiến thắng thuộc về người
Có niềm hy vọng lớn hơn. Amen

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

25 thg 12, 2019

Xin nhận lấy hồn con (26.12.2019 – Ngày II trong Tuần Bát nhật Giáng sinh – Thánh Stêphanô, tử đạo tiên khởi)


Lời Chúa: Cv 6, 8-10; 7, 54-60

Ông Stêphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Có những người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alêxanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Tiểu Á, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông.
Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stêphanô.
Ðược đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Ðức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông và lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô. Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con.” Rồi ông quỳ xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ.

Suy nim:

Giáo Hội mừng kính lễ thánh Stêphanô vào ngay sau lễ Giáng Sinh.
Ngài đã chết như chứng nhân đầu tiên cho Chúa Giêsu.
Người làm chứng đã trở thành người tử đạo.
Stêphanô là một phó tế đầy đức tin và Thánh Thần (Cv 6, 5),
đầy ân sủng và quyền năng, làm được những điềm thiêng dấu lạ (c. 8).
Ông gặp sự chống đối từ một số người Do Thái gốc Hy Lạp (c. 9).
Nhưng họ không địch nổi sự khôn ngoan và Thần Khí nơi ông.
Ông đã bị bắt, bị đem ra xử trước Thượng Hội Đồng (c. 12).
Stêphanô đã giảng một bài dài về dòng lịch sử cứu độ (Cv 7).
Chính bài giảng này đã khiến họ tức điên lên chống lại ông.

Khi đứng trước Thượng Hội Đồng Do Thái giáo,
khuôn mặt của Stêphanô giống như thiên thần (Lc 6, 15).
Ông nhìn lên trời, thấy trời mở ra và thấy vinh quang Thiên Chúa.
Nhưng hình tượng quan trọng ông thấy là Đức Giêsu.
Ngài đang đứng ở bên hữu Thiên Chúa, ở vị trí danh dự (c.56).
Ông đã tuyên xưng trước mặt mọi người điều mình vừa thấy.
“Tôi thấy Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.”
Stêphanô gọi Đức Giêsu là Con Người,
một lối nói Đức Giêsu vẫn hay dùng để nói về bản thân.
Tuyên xưng của ông bị coi là xúc phạm đến Thiên Chúa.
Những người nghe đã xông vào, lôi ông đi và ném đá ông ở ngoài thành.
Stêphanô bị ném đá vì tội nói phạm thượng (cc. 57-58).
Thật ra ông đã chỉ làm chứng về Đấng Công Chính là Đức Giêsu (c. 52).

Cái chết tử đạo của Stêphanô được thánh Luca kể lại
với những nét giống với cái chết trước đó của Đức Giêsu.
Cái chết của ông là cái chết an hòa và bao dung.
Như Đức Giêsu trên thập giá, ông chết khi ông đang cầu nguyện.
Đức Giêsu đã kêu lên Thiên Chúa, Đấng mà Ngài âu yếm gọi là Cha:
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).
Khi cận kề với cái chết, Stêphanô cũng cầu xin với Đấng ông vừa thấy:
“Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (c. 59).
Ông gọi Đức Giêsu phục sinh là Chúa và ông trao đời ông cho Ngài,
như Ngài đã trao đời Ngài vào tay Cha.
Như Đức Giêsu, Stêphanô đã kêu một tiếng lớn trước khi chết,
Ông chết trong tư thế quỳ, đống đá đè trên người ông và vùi lấp ông.
Ông chết trong tư thế cầu nguyện cho kẻ giết mình.
“Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (c. 60).

Bầu khí xử án Stêphanô là bầu khí của Ba Ngôi.
Có sự hiện diện của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu và Thánh Thần.
Thánh Thần giúp chúng ta làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới.
Ơn gọi Kitô hữu bao giờ cũng đòi chúng ta lội ngược dòng.
Ngược dòng với thế gian, với những cám dỗ đến từ chính lòng mình.
Không chỉ trao linh hồn ta vào tay Chúa lúc ta gần chết,
chúng ta phải trao đời ta vào mỗi buổi sáng và trong suốt hôm nay.

Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.

Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp :
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.

Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.

Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

24 thg 12, 2019

Ngôi Lời làm người (25.12.2019 – Lễ Giáng Sinh – Thánh Lễ Ban Ngày)


Tin Mừng theo thánh Gioan 1,1-18

NgoiLoiLamNguoi(1) Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
(2) Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
(3) Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
(4) Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
(5) Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
(6) Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gioan.
(7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
(8) Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
(9) Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
(10) Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
(11) Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
(12) Còn những ai đón nhận,
tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
(13) Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.
(14) Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
(15) Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố:
“Ðây là Ðấng mà tôi đã nói:
Người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”
(16) Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
(17) Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Ðức Giêsu Kitô mà có.
(18) Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ;
nhưng Con Một là Thiên Chúa
và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

 Suy niệm 

Trong ngày đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh,
Giáo Hội cho chúng ta nghe Lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan.
Lời mở đầu này là một bài ca về sự cao trọng vô song của Ngôi Lời.
Ngôi Lời là Đấng vĩnh hằng, đã hiện hữu từ nguyên thủy.
Ngài là Thiên Chúa, là Con Một luôn hướng về Thiên Chúa Cha (c. 1).
Tương quan giữa Thiên Chúa và Ngôi Lời là tương quan giữa Cha với Con.
Thiên Chúa Cha đã muốn Ngôi Lời cộng tác trong việc tạo dựng vũ trụ.
Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành (cc. 3, 10).
Chẳng có thụ tạo nào hiện hữu mà lại không được dựng nên bởi Ngôi Lời.
Dù khác nhau về màu da, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo…
mỗi con người đều mang trong mình Sự Sống của Ngôi Lời.
Sự Sống ấy là Ánh Sáng vẫn chiếu soi cả nhân loại (c. 4),
và soi chiếu lương tâm từng con người, chẳng trừ ai (c. 9),
bất chấp sức mạnh gớm ghê của bóng tối (c. 5).

Rồi khi đến thời viên mãn, vì quá yêu thương con người trầm luân
Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời, Con Một của Ngài vào trần gian để cứu độ.
Ngôi Lời vĩnh cửu đã trở nên người phàm, mang tên Giêsu,
mang thân xác giới hạn như chúng ta, sống trong dòng lịch sử,
và ở giữa chúng ta trên cùng một trái đất (v. 14).
Đấng Tạo thành vạn vật bây giờ trở nên một thụ tạo bé nhỏ,
được sinh ra, được bú mớm, từ từ lớn lên và trưởng thành.
Đấng Tạo thành vạn vật nay sẽ là Đấng Cứu độ loài người,
để ai tin vào Ngài thì Ngài cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa (c. 12).

Khi vâng ý Cha chấp nhận nhập thể và nhập thế,
Ngôi Lời đã cúi xuống bắc cầu nối kết Thiên Chúa với con người,
để đưa con người vào sống tình thân với Thiên Chúa.
Chưa bao giờ và mãi mãi về sau,
chẳng bao giờ có một Vị Trung Gian cứu độ nào tuyệt vời đến thế.
Vì chỉ mình Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là một con người thật.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng đại lễ Thiên Chúa đến cứu con người.
Thiên Chúa Cha không muốn cứu độ nhân loại bằng cách chỉ phán một lời.
Ngài muốn tặng cho ta món quà cao quý là chính Người Con duy nhất.
Chẳng ai thấy tận mắt hay biết rõ Thiên Chúa bao giờ.
Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta được quen biết và gặp gỡ Thiên Chúa.
Vì duy chỉ mình Ngài là Con hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha (c. 18).

Lễ Giáng Sinh đem lại niềm vui cho toàn thể thế giới con người.
Vì Con Thiên Chúa đã mang phận người vất vả, long đong,
nên đời người, dù đổ vỡ khổ đau, cũng có ý nghĩa, và đáng sống.
Vì Con Thiên Chúa đã mang khuôn mặt, và thân xác con người,
nên bất cứ ai là người, đều mang hình ảnh của Con Thiên Chúa.
Vì Con Thiên Chúa đã cư ngụ trên trái đất nhỏ xíu này của chúng ta,
đã sống nhờ không khí, nước và thức ăn của trái đất này,
nên trái đất này thật là thế giới linh thánh, cần trân trọng.
Lễ Giáng Sinh bao giờ cũng mời ta nhìn lại đời mình,
nhìn lại khuôn mặt những người chung quanh, nhìn lại trái đất mình sống,
với lòng kính trọng, vui sướng, và biết ơn.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Ước gì tôi biết đưa hai tay ra để đón lấy quà tặng cao quý ấy.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương,
và đã ban cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết khi chưa mở mắt chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, hận thù ở khắp nơi.
Người ta cứ giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn có mặt trên địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.

Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.