31 thg 10, 2017

Nước trời là của họ (01.11.2017 – Lễ Các thánh nam nữ)


Lời Chúa: Mt 5, 1-12a
1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi.
Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.

2 Người mở miệng dạy họ rằng:
3 “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.

4 Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
5 Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

7 Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.

11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả,
bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.

12 Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
Suy nim:
Nếu chúng ta được lên trời để thăm các thánh,
hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng.
Các thánh không phải chỉ là những vị được tôn phong,
mà là tất cả những ai đang hưởng hạnh phúc trên trời.
Các thánh thật khác nhau về nhiều mặt:
giới tính, tuổi tác, màu da, tiếng nói, nghề nghiệp,
hoàn cảnh, thời đại, bậc sống, khả năng, tính tình…
Có người không biết viết như thánh nữ Catarina Siêna.
Có người đậu tiến sĩ triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein.
Có người làm bao phép lạ phi thường như ngôn sứ Êlia.
Có người sống âm thầm như chị Têrêsa nhỏ.
Nói chung chẳng gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh,
vì Thiên Chúa muốn mọi người nên thánh chẳng trừ ai.
Các mối phúc là con đường nên thánh.
Con đường này chính Ðức Kitô đã đi và mời ta cùng đi.
Ngài mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành,
nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa,
có lòng khát khao sự công chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài.
Trong tương quan với tha nhân, Ðức Kitô mời ta
có lòng thương xót, biết đau nỗi đau của người khác,
có tâm hồn trong sạch, nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành,
có tinh thần xây dựng hòa bình và công bằng xã hội,
nghĩa là chăm lo phát triển toàn diện từng người và mọi người.
Sống các mối phúc trên là chấp nhận mối phúc bị bách hại.
Mỗi vị thánh đều sống nổi bật trong một số mối phúc.
Họ đã nếm phần nào hạnh phúc từ đời này
trước khi hưởng hạnh phúc trọn vẹn bền vững trên trời.
Chúng ta thường nghĩ nên thánh là chuyện cao siêu
dành cho một thiểu số hết sức đặc biệt.
Thật ra mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh.
“Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời.”
Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn mọi sự thánh thiện.

Ngài mời chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài.
Nên thánh là đáp trả lời mời đó.
Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì.
Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống,
là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình
đẻ sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa
và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại.
Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tặng trao,
là để cho Chúa yêu mình, nắm tay mình,
dắt mình vào thế giới riêng tư của Chúa.
Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em,
là để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Chúa mời tôi nên thánh với con người và hoàn cảnh riêng.
với sa ngã của quá khứ và mỏng giòn của hiện tại,
với cái dằm vẫn thường xuyên làm tôi nhức nhối.
Chúa muốn tôi nên thánh với mặt mạnh, mặt yếu của tôi.
Ước gì đời tôi vén mở một nét nào đó của Chúa.
Cầu nguyn:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Chân phước Charles de Foucauld)
  Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

30 thg 10, 2017

Lớn lên và trở thành (31.10.2017 – Thứ ba Tuần 30 Thường niên)


Lời Chúa: Lc 13, 18-21
18 Vậy Người nói: “Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì?19 Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.”20 Người lại nói: “Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì?21 Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”

Suy niệm:
Hai dụ ngôn trên đây tỏ ra lạc quan và hy vọng. 
Nước Thiên Chúa đã được Đức Giêsu khai mở và loan báo. 
Nước ấy cần có thời gian để lớn lên, để tác động trên con người. 
Chắc chắn kết quả cuối cùng sẽ rất tốt đẹp.
Một người đàn ông ném vào khu vườn của mình một hạt cải nhỏ bé. 
Ông có ước mơ mong mỏi gì không? 
Vậy mà theo thời gian, hạt cải ấy đã lớn lên và trở thành một cây. 
Cây vững đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó được (c. 19). 
Đức Giêsu muốn làm nổi bật sự phát triển mạnh mẽ của Nước Trời. 
“Lớn lên và trở thành” là một tiến trình do Thiên Chúa dẫn dắt. 
Bất chấp những khó khăn trong hiện tại, Nước Trời vẫn cứ lớn lên, 
để rồi sẽ là nơi trú ngụ cho nhiều người ở khắp nơi tìm đến.
Một phụ nữ lấy men và vùi nó vào một lượng bột rất lớn. 
Men không nhiều, lại được vùi sâu, nên có vẻ như không hiện hữu. 
Nhưng trong thực tế, men đã có đó rồi và đang tác động trên bột. 
Với thời gian, men làm cả khối bột dậy men. 
Bấy giờ sức biến đổi của men mới được mọi người nhận biết. 
Khối bột lên men đã sẵn sàng trở nên những ổ bánh ngon lành. 
Đức Giêsu làm nổi bật sức mạnh của Nước Thiên Chúa 
trong việc biến đổi thế giới này từ bên trong. 
Chính sự tiếp xúc trực tiếp, sự thâm nhập của men vào bột 
đã tạo ra sự biến đổi kỳ diệu ấy.
Những lời giảng của Đức Giêsu đã vang lên từ hai mươi thế kỷ. 
Nước Thiên Chúa đã được Ngài khai mở và vun trồng mãi đến nay. 
Kitô giáo vẫn là một tôn giáo lớn, chiếm một phần ba dân số thế giới. 
Nhưng có những lúc chúng ta có cảm tưởng như nó bị chựng lại. 
Khi có nhiều nhà thờ phải bán đi vì không có người đi lễ Chúa nhật, 
khi các chủng viện hay dòng tu trở nên vắng vẻ, già nua, 
khi ở nhiều nơi số linh mục thiếu một cách trầm trọng, 
khi tỷ lệ tăng của Kitô hữu không bằng với tỷ lệ tăng của dân số thế giới. 
Kitô giáo có tương lai không? Kitô giáo có thể bị tàn lụi không? 
Những câu hỏi đó làm nhiều người bận tâm và lo lắng. 
Hai dụ ngôn của Đức Giêsu hôm nay đem lại cho ta niềm lạc quan. 
Nhưng đó không phải là thứ lạc quan vô trách nhiệm. 
Làm cho Nước Thiên Chúa lớn lên và thâm nhập vào thế giới hôm nay, 
đó không phải chỉ là chuyện của Thiên Chúa. 
Đó là chuyện của từng Kitô hữu chúng ta. 
Để hạt cải thành cây, cần một chút chăm bón. 
Ai trong chúng ta cũng là một nhúm men nhỏ được vùi trong đống bột, 
đống bột của trường học hay công ty, của một tập thể hay cộng đồng. 
Làm sao để men của chúng ta tạo ra những tác dụng tốt? 
Không cần phải làm những việc lớn lao để thay đổi bộ mặt thế giới. 
Chỉ xin làm một nhúm men nhỏ để đến với những người tôi gặp hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh

là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

29 thg 10, 2017

Đứng thẳng được (30.10.2017 – Thứ hai Tuần 30 Thường niên)


Lời Chúa: Lc 13, 10-17
10 Ngày sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường.11 Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được.12 Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi lại và bảo: “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền! “13 Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.14 Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát! “15 Chúa đáp: “Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước?16 Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? “17 Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện.
Suy niệm:
Trong dòng tiến hóa từ vượn lên đến người, 
có một thay đổi bên ngoài khá rõ nét. 
Càng tiến hóa thì lưng con vật càng thẳng hơn. 
Khi con người có thể đứng thẳng, tầm nhìn sẽ rộng hơn, xa hơn. 
Hai chi trước được tự do nên có thể làm được nhiều điều phức tạp. 
Đứng thẳng đúng là một nét đặc trưng của con người.
Người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay bị còng lưng đã lâu. 
Mười tám năm không thể nào đứng thẳng lên được (c. 11). 
Lưng bà còng hẳn xuống khiến tầm nhìn của bà bị giới hạn. 
Có lẽ bà chỉ nhìn thấy mảnh đất nhỏ trước mặt hơn là thấy bầu trời cao. 
Bệnh này thật khó chịu, khiến bà đi đứng khó khăn. 
Vậy mà bà vẫn có mặt ở hội đường vào ngày sabát, khi Đức Giêsu giảng. 
Dù bà thấp vì còng lưng, Ngài vẫn trông thấy bà. 
Dù bà chẳng xin gì, Ngài vẫn chủ động gọi để gặp bà (c. 12).
 Đức Giêsu nhìn thấy sự trói buộc do cơn bệnh dai dẳng. 
“Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền.” 
Chữa bệnh chính là đem lại giải thoát cho người phụ nữ. 
Hơn nữa, Đức Giêsu còn đặt tay trên bà như một cử chỉ yêu thương. 
Tức khắc bà còng lưng đã có thể đứng thẳng lên được. 
Điều mơ ước từ mười tám năm, bỗng chốc thành hiện thực. 
Bà có thể nhìn thấy bầu trời và cất lời tôn vinh Đấng ngự trên đó (c. 13). 
Đức Giêsu coi bệnh của bà như một sự trói buộc của Xatan (c. 16). 
Không phải chỉ là trói buộc bằng dây như người ta cột bò lừa (c. 15), 
mà là trói buộc bằng xiềng xích. 
Chính vào ngày sabát, Đức Giêsu đã cởi xiềng xích đó cho bà, 
để bà được tự do, được đứng thẳng như một người bình thường. 
Bà còng lưng bị trói buộc bởi gánh nặng của bệnh tật. 
Nhưng có bao thứ trói buộc khác làm con người mất tự do. 
Như người phụ nữ này, chúng ta muốn và cố làm cho mình đứng thẳng, 
nhưng hoàn toàn bó tay từ nhiều năm qua. 
Có những thứ trói buộc do tác động bên ngoài, 
|nhưng có thứ xiềng xích do chính chúng ta đúc nên để tự giam mình. 
Tôi bị trói buộc bởi lòng ích kỷ, tham vọng, thèm muốn… 
Chúng ta cần thú nhận mình không tự giải thoát mình được, 
không tự đứng thẳng được, không tự cắt đứt những thứ trói buộc mình. 
Chúng ta cần Đức Giêsu đặt tay của Ngài trên đời ta để ta được tự do.
Đâu phải chỉ người phụ nữ còng lưng mới bị trói buộc. 
Tôi cũng bị trói buộc bởi những giá trị mập mờ của thế tục. 
Làm sao để tôi được tự do với cái cell phone tôi đang dùng, 
với những hình ảnh mà tôi tìm kiếm trên internet, 
với lối sống mà ngày nay bao người coi là đáng ước mơ? 
Xin cho tôi không chỉ cúi xuống nhìn thấy miếng đất be bé trước mặt, 
nhưng có thể ngước lên để thấy bầu trời mênh mông trên cao.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

28 thg 10, 2017

ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT (29.10.2017 – Chúa nhật 30 Thường niên, Năm A)


Lời Chúa: Mt 22, 34-40

Khi nghe tin Ðức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng, thì những người Pharisêu họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Ðức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Ðức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn trọng nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.”

Suy niệm:

Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.

Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.

Cầu nguyện:

Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.

Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.

Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.

Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa.

(Thánh Âu-Tinh)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ