21 thg 1, 2019

Con Người làm chủ ngày sabát (22.1.2019 – Thứ Ba Tuần 2 Thường niên)

Lời Chúa: Mc 2, 23-28
23 Vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa.24 Người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giê-su: “Ông coi, ngày sa-bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép! “25 Người đáp: “Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng?26Dưới thời thượng tế A-bi-a-tha, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế.”
27 Người nói tiếp: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát.28 Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát.”
Suy niệm:
Các Kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai 
thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát. 
Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo 
Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36). 
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.
Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát. 
Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa. 
Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong. 
Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm: 
“Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.” 
Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát, 
lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa, 
mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát. 
Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê. 
Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này, 
nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật 
nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li.
Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít. 
Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực. 
Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6). 
Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9). 
Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế. 
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng 
nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh 
thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó 
cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).
Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại. 
Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát. 
Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi 
hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15). 
Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa, 
nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.
Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa, 
nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa. 
Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần. 
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở 
về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa. 
Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy.
Cầu nguyện:
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa, 
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan, 
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài, 
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la, 
trong cô đơn và thầm lặng, 
với tấm lòng thanh tịnh, 
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn, 
huyên náo vì đấu tranh, 
giữa đám đông hối hả lăng xăng, 
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời, 
lạy Thiên Chúa muôn loài, 
một mình, lặng lẽ, 
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
(R. Tagore – Ðỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

20 thg 1, 2019

Chàng rể còn ở với (21.01.2019 – Thứ Hai Tuần 2 Thường niên)

Lời Chúa: Mc 2, 18-22
18 Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an và các người Pha-ri-sêu đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giê-su: “Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay? “19 Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được.20 Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó.21 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ, khiến chỗ rách lại càng rách thêm.22 Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới! “
Suy nim:
Một trong những nét khác biệt giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Giêsu  
là sự khắc khổ nhiệm nhặt. 
Gioan được coi là người “không ăn bánh, không uống rượu” (Lc 7, 33). 
còn Đức Giêsu bị mang tiếng là “tay ăn nhậu” với quân thu thuế (Lc 7, 34). 
Chúng ta đã từng thấy ngài ăn tại nhà ông Lêvi hay ông Dakêu. 
Các người Pharisêu cũng là những người thích ăn chay nhiều lần trong tuần, 
dù ngày ăn chay chính thức hàng năm của đạo Do-thái chỉ là ngày lễ Xá tội.
Như thế có sự khác biệt khá rõ giữa môn đệ của Đức Giêsu 
với môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của người Pharisêu. 
Một bên có vẻ thoáng và thoải mái, một bên thì khắc khổ nhiệm nhặt. 
Tại sao môn đệ của ông lại không ăn chay ?” 
Có người đã dám hỏi thẳng Đức Giêsu như thế. 
Ngài đã trả lời bằng một cách dùng một hình ảnh dễ hiểu và đầy ý nghĩa. 
Vào thời Đức Giêsu, tại Paléttin, cũng như tại nhiều vùng quê ngày nay, 
đám cưới là một biến cố mừng vui có tính làng xã. 
Chẳng thể nào hiểu được chuyện một người đi ăn cưới 
với khuôn mặt buồn của kẻ đang ăn chay.
Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, 
khi chàng rể còn ở với họ” 
Đức Giêsu tự ví mình với chàng rể, còn môn đệ là khách dự tiệc cưới. 
Bầu khí trong nhóm môn đệ của ngài là bầu khí vui tươi của một lễ thành hôn 
bởi lẽ thời đại thiên sai đã đến rồi. 
Đức Giêsu, Đấng Mêsia dân Ítraen mong đợi từ lâu, nay có mặt. 
Ngài là chàng rể kết duyên với cô dâu là dân tộc Ítraen của ngài. 
Đức Giêsu đã làm trọn điều các ngôn sứ nói trong Cựu Ước 
về việc Thiên Chúa lập hôn ước với dân của Người (Hs 2, 21-22; Is 62, 4-5).
Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay.” 
Sau khi Đức Giêsu chịu cái chết dữ dằn, được phục sinh và lên trời, 
Giáo hội bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn chờ đợi ngài quang lâm. 
Trong giai đoạn này, khi Chúa Giêsu vừa vắng mặt, vừa hiện diện, 
Các Kitô hữu ăn chay, vác thánh giá theo Chúa Giêsu, 
dù họ vẫn luôn sống trong niềm vui, bởi tin vào Đấng đã phục sinh vinh hiển.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu, 
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

19 thg 1, 2019

Chúa Nhật Tuần II Mùa Thường Niên - Năm C


Chúa Nhật Tuần II Mùa Thường Niên - Năm C
Lời Chúa: 
 Ga 2, 1-12
1 Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. 2 Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. 3 Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". 4 Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". 5 Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo".
6 Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. 7 Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng. 8 Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang 10 mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". 11Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.
12 Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.
"Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo." (Ga 2,5)
Suy niệm: 
SỢI CHỈ ĐỎ:
Tình yêu hôn nhân rất tốt đẹp. Vì thế Chúa Giêsu đã tới Cana để dự tiệc cưới và chúc phúc cho đôi tân hôn (Bài Phúc Âm). Thiên Chúa còn dùng hình ảnh hôn nhân loài người để giúp người ta hiểu được phần nào tình yêu của Ngài đối với nhân loại (Bài đọc I)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ nghe Thiên Chúa ngỏ lời "tỏ tình" với loài người chúng ta. Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa phán: "Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ".
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình Chúa yêu thương chúng ta đến mức nào.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng đáp lại, chúng con yêu thương Chúa quá ít. Xin Chúa thương xót...
- Vì yêu thương chúng con, nên Chúa hy sinh rất nhiều cho chúng con, thậm chí Chúa đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Phần chúng con vì yêu thương Chúa ít nên chúng con ít khi chịu hy sinh vì Chúa. Xin Chúa Kitô thương xót...
- Yêu thương là cho đi. Chúa yêu thương chúng con vô cùng nên đã ban cho chúng con vộ vàn ơn sủng. Còn chúng con thì chẳng có gì để dâng cho Chúa. Xin Chúa thương xót...
III. PHÂN TÍCH LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 62,1-5)
Bài thơ này của Đệ Tam Isaia được sáng tác sau khi dân Do Thái được thoát cảnh lưu đày, hồi hương về cố quốc.
Khi nhìn ngược về quá khứ, tác giả hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng khi nhìn vào hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa: dù dân đã phản bội nhưng Chúa vẫn yêu thương. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: "Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’. Chẳng những thế, Chúa còn yêu thương họ như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới: "Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ".
2. Đáp ca (Tv 95)
Thánh vịnh 95 là tâm tình của người ý thức tình thương Thiên Chúa: vui mừng, ca tụng và loan báo "Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa đã làm".
3. Bài đọc II (1 Cr 12,4-11) (Chủ đề phụ)
Có nhiều chia rẻ, đố kỵ và tranh chấp trong giáo đoàn Côrintô: người có tài thì khinh chê kẻ khác, kẻ bất tài thì đố kỵ, những kẻ có tài lại ganh ghét nhau.
Thánh Phaolô nhắc cho họ nhớ: (1) tất cả mọi tài năng đều là do Chúa Thánh Thần ban; (2) mà ơn Chúa Thánh Thần ban thì khác nhau nơi mỗi người; (3) và tất cả những ơn ban đó đều nhằm phục vụ lợi ích chug của Giáo Hội.
4Phúc Âm (Ga 2,1-12)
Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là "dấu chỉ đầu tiên" qua đó Chúa Giêsu "bày tỏ vinh quang của Ngài" để cho "các môn đệ tin vào Ngài" (câu 11). Chúa bày tỏ những gì?
1. Trước hết Ngài cho thấy Ngài là Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn lại chính là Chúa Giêsu.
2. Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời của người Do Thái: bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới mà Chúa Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài.
3. Bài tường thuật cũng nói tới "giờ" (Chúa Giêsu nói với mẹ: "Giờ con chưa đến"). "Giờ" là lúc Chúa Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới "giờ" ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
4. Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Chúa Giêsu can thiệp.
IV. GỢI Ý SUY GẪM
1. Tình yêu của Chúa
Trong các thứ tình yêu, tình yêu nào nồng nàn tha thiết nhất? Thưa là tình cha mẹ dành cho con cái, và tình vợ chồng đối với nhau. Nếu so sánh hai thứ tình đó với nhau thì tình yêu hôn nhân chắc là mạnh hơn. Bởi đó sách Sáng thế đã viết "Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình" (St 2,24). Chúa Giêsu cũng đồng ý như thế nên đã trích dẫn lại câu ấy khi tranh luận với các người biệt phái (Mt 19,5). Cũng vì lý do đó nên khi muốn tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương loài người đến mức nào, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa.
Trong tình yêu vợ chồng, điều gì đáng quý nhất? Thưa đó là sự hy sinh cho nhau và chung thuỷ với nhau. Hy sinh cho nhau nhiều chừng nào thì đó là bằng chứng yêu thương nhau nhiều chừng ấy. Dù gặp phải bao sóng gió, dù những khuyết điểm lỗi lầm thường xuyên đe dọa, nhưng vợ chồng vẫn yêu thương nhau đến chết, đó mới là tình yêu chân thật vững bền.
Thế nhưng, trong một trăm đôi vợ chồng, có bao nhiêu đôi hy sinh và chung thuỷ được như thế.
Rốt cuộc, dù con người được nếm vị ngọt của nhiều loại tình yêu, nhưng rất nhiều lần cũng phải thất vọng với những tình yêu nhân loại, cho dù đó là tình vợ chồng tha thiết nhất.
Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là tình yêu chân thật và cao cả nhất: vì yêu thương chúng ta, Chúa Cha đã hy sinh ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta; vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã hy sinh đến nỗi chịu chết vì chúng ta: "Không có tình yêu nào cao trọng bằng tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu". Mặt khác, dù loài người luôn phản bội, Thiên Chúa vẫn tha thứ và vẫn cứ yêu. Loài người đã nhiều lần bỏ Chúa, nhưng Chúa không bao giờ bỏ loài người.
Con người là một sinh vật yêu thương: con người cần yêu thương và cần được yêu thương. Chúng ta hãy tìm đến tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ chẳng phải thất vọng bao giờ.
2. Phép lạ ở Cana
Thời nay đang có một cuộc khủng hoảng về gia đình: số người lập gia đình rồi li dị càng ngày càng nhiều; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết sống chung suốt đời.
Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mõi, không ngừng nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.
Ở Cana, Chúa Giêsu đã làm phép lạ như thế: khi người ta thiếu rượu, Ngài đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Ngài đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai thực lòng cầu xin Ngài. Tại sao những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn không cầu xin phép lạ ấy? Tại sao anh chị em không nhờ Đức Mẹ chuyển lời cầu xin?
3. Ý nghĩa sâu xa của phép lạ hóa nước thành rượu
Phúc Âm theo Thánh Gioan thường có ý nghĩa rất sâu xa. Chẳng hạn đoạn Phúc Âm này, tuy nói về một đám cưới nhưng ý nghĩa không chỉ gói gọn trong đời sống hôn nhân mà bao trùm cả đời sống mọi người; tuy nói về nước hóa thành rượu nhưng chỉ đến tất cả những thứ mà quyền năng Chúa Giêsu có thể biến đổi.
Việc Chúa Giêsu hóa nước thành rượu được Thánh Gioan gọi là "dấu chỉ" và còn là "dấu chỉ đầu tiên để bày tỏ vinh quang của Ngài". Dấu chỉ là cái gì đó trước mắt chỉ tới cái khác. Cái trước mắt ở Cana là nước thành rượu. Cái khác mà nước thành rượu chỉ tới là gì? Thưa là điều được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc I: đó là ngày mà Thiên Chúa biến đổi cuộc sống con người thành hoan lạc như tiệc cưới: "Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rẻ, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ".
Chúa Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Naim, Ngài đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi con mình sống lại. Ở Giêricô, Ngài đã biến đổi cõi lòng héo úa vì ích kỷ của ông Dakêu thành một tâm hồn tươi tốt quãng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, Ngài vẫn tiếp tục biến đổi người trộm lành đang tuyệt vọng thành người khách mời đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Ngài đã biến đổi sự chết thành sự sống.
Nếu đời bạn đang tẻ nhạt như nước lã. Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ biến đổi cho nước lã ấy thành rượu ngon tuyệt vời.
4. Hạnh phúc mong manh
Ở đất Vũ Bình có giống vượn đỏ như vang, nõn nà như tơ, trông xa lấp lánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan, tinh anh, con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào mẹ con cũng đi bên nhau. Người đi săn không thể nào nhử mồi đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc sát vào đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Khi vượn mẹ bị trúng tên, biết mình không thể sống được, liền vắt sữa ra cho con uống, xong rồi lăn ra chết.
Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con trông thấy kêu gào thương xót chạy lại gần, người đi săn liền vồ lấy mà bắt sống. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên, đôi khi lại ôm lấy mẹ kêu gào thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng lăn ra chết.
Tình mẫu tử của giống vượn lông đỏ làm cho chúng ta vô cùng xúc động: Tuy nhiên, chúng ta cũng có một người mẹ, hết lòng chăm lo cho từng đứa con còn lớn lao hơn gấp bội. Đó chính là Mẹ Maria.
Có thể nói, một trong những trang đẹp nhất của sách Phúc Âm Gioan, chính là bài tường thuật về "Tiệc cưới Cana". Chính nơi tiệc cưới này, Mẹ đã bày tỏ thật sâu sắc tình mẫu tử của người.
Theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày, nhưng mới đến "ngày thứ ba" thì tiệc cưới Cana đã hết rượu. Thật là một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc vô cùng bối rối khó xử. Duy chỉ có Mẹ Maria nhận ra được tình thế gay go ấy. Sự nhạy cảm và lòng thương yêu của tình mẫu tử đã khiến Mẹ mạnh dạn thưa với Chúa Giêsu: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2,3). Một câu nói ngụ ý nài xin kín đáo.
Nhưng lời đáp trả của Chúa Giêsu mới làm cho chúng ta thật sửng sốt: "Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến" (Ga 2,4). Qua câu này Chúa Giêsu chỉ muốn xác quyết tính siêu việt của Người: Hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha. Chắc Mẹ cũng không hiểu rõ chữ "Giờ" tức là giờ vinh quang của Chúa Giêsu sau cuộc tử nạn và phục sinh. Nhưng Mẹ vẫn một mực hoàn toàn tin tưởng vào Con của Mẹ, Mẹ mong Con làm một điều gì đó: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5). Quả thật, Chúa Giêsu có bảo và các người giúp việc đã làm.
Thế là Chúa Giêsu quyết định thực hiện một phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai rao giảng, một phép lạ kiểu mẫu của các phép lạ kế tiếp. Tuy "Giờ" tôn vinh chưa đến, nhưng ngay lúc này, Người muốn biểu lộ giờ vinh quang ấy qua phép lạ Người sắp thực hiện để "Các môn đệ tin vào Người" (Ga 2,11). Nh
ờ sự can thiệp của Mẹ mà phép lạ Cana đã được thực hiện, để đức tin của các môn đệ được củng cố và triển nở.
Nhờ sự đóng góp của Mẹ mà sáu chum nước lã đã biến thành 700 lít rượu ngon, để niềm vui của đôi tân hôn và khách dự tiệc được trọn vẹn. Ngày
nay, Mẹ vẫn nói nhỏ bên tai Chúa: "Họ hết rượu rồi".
Để cho bao mối tình đang nhạt phai được trở nên nồng thắm và tràn đầy tin yêu.
Để cho bao gia đình thiếu vắng tình yêu được củng cố và thuận hoà yêu thương.
Để cho bao tâm hồn đang chao đảo giữ vững được niềm tin và hy vọng.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã biến nước lã của Cựu ước thành rượu ngon của Tân ước, để mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai; thì ngày nay, Người cũng muốn chúng ta biến cuộc đời lạt lẽo của mình thành rượu nồng tình yêu: yêu Chúa và yêu tha nhân, để mọi người được chan chứa niềm vui cứu độ. Nếu Chúa Giêsu đã biến thứ nước tẩy uế của Do Thái giáo thành rượu ngon hảo hạng, để thiết lập một trật tự mới; thì Người cũng mời gọi chúng ta hãy biến đổi trái đất này thành m
ột thế giới mới: chân thật, công bằng và yêu thương.
5. Đức Maria, gương mẫu của sứ vụ
Phúc Âm thánh Gioan chỉ nhắc tới Đức Maria có hai lần: một lần ở Cana lúc Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, và một lần dưới chân thập giá lúc Ngài hoàn thành sứ vụ. Hai lần ở đầu và cuối, ngụ ý bao hàm tất cả. Các Phúc Âm nhất lãm nói rõ hơn về điều này.
Trong biến cố Truyền tin, khi được hỏi có muốn làm mẹ Đấng Cứu Thế hay không, Người đã bỏ ý riêng sang một bên để quảng đại "Xin Vâng" theo thánh ý Chúa. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là sẵn sàng gác sang một bên những chương trình riêng của mình, để đáp lại lời Chúa mời hợp tác trong chương trình của Ngài.
Trong biến cố Thăm viếng, khi vừa hay tin người chị họ của mình đã mang thai 6 tháng và đang cần người giúp đỡ, Đức Maria đã vội vã đến nơi. Sứ vụ đôi khi có nghĩa là phải có sáng kiến: thấy nhu cầu, và mau mắn phục vụ.
Trong biến cố Cana, Đức Mẹ thoáng nhận ra vẻ bối rối của nhà chủ, Người hiểu ngay là họ thiếu rượu, và Người đã xin Con giúp đỡ. Sứ vụ đôi khi cần phải tế nhị: nhận ra điều người ta đang cần, nhưng ý thức rằng bản thân mình không làm gì được, nên giới thiệu cho kẻ có khả năng giúp đỡ.
Trên đồi Golgotha, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn con yêu dấu đang hấp hối, rất đau lòng nhưng chỉ biết lặng thinh. Sứ vụ có khi còn có nghĩa là chấp nhận bất lực không làm gì được, chỉ biết phó thác.
Tất cả chúng ta đều được Chúa trao sứ vụ: sứ vụ đối với gia đình, sứ vụ với Giáo Hội, sứ vụ với xã hội, sứ vụ với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nhìn gương Đức Mẹ và bắt chước Người. (FM)
6. Chuyện minh họa
a/ Con sâu trong tảng đá
Một hôm Thượng Đế gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh: "Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ". Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Thượng Đế để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Thượng Đế. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Thượng Đế mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Thượng Đế gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên: "Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài." (Trích "Món quà giáng sinh")
b/ Cái nhìn của bậc thánh nhân
Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ: từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.
BÀI ĐỌC I: Is 62, 1-5
“Người chồng sẽ vui mừng vì vợ”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là “kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân cư.
(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 4-11
“Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một Thánh Thần; người khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh, trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định.
Lm. Carolo Hồ Bạc Xái

Phóng sự đặc biệt: Đức Thánh Cha khai mạc Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo






18 thg 1, 2019

Kêu gọi người tội lỗi (19.01.2019 – Thứ Bảy Tuần 1 Mùa Thường niên)


Lời Chúa: Mc 2, 13-17
Đức Giêsu lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ họ. Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lêvi là con ông Anphê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo Người. Người đến dùng bữa tại nhà ông. Nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Đức Giêsu và các môn đệ: con số họ đông và họ đi theo Người. Những kinh sư thuộc nhóm Pharisêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi!” Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói với họ: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
Suy nim:
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu đã tha tội cho anh bất toại. 
Và chuyện này đã bị các kinh sư coi là phạm thượng (Mc 2, 6). 
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngài lại tiếp tục bị tấn công, 
vì làm những điều dưới mắt các kinh sư là gai chướng.
Trước hết là việc chọn ông Lêvi vào số các môn đệ. 
Như bốn môn đệ đầu tiên, khi được gọi Lêvi cũng đang làm việc. 
Lúc đó ông đang ngồi nơi bàn thu thuế, bận bịu với tiền bạc và sổ sách. 
Ánh mắt của Thầy Giêsu chụp lấy ông và lôi cuốn ông. 
Lời mời của Thầy thật rõ ràng và ngắn gọn: “Anh hãy theo tôi.” 
Lêvi có ngỡ ngàng không? 
Ông đang làm một nghề bị mọi người coi là ô uế 
vì phải tiếp xúc với dân ngoại và dính dáng đến dối trá tham lam. 
Ông bị coi là tội nhân, bị gạt ra khỏi cộng đoàn Dân Chúa. 
Bây giờ ông được Thầy mời vào nhóm môn đệ của mình 
Đức Giêsu có liều lĩnh không? 
Ngài có sợ uy tín nhóm bị giảm sút vì sự có mặt của Lêvi không? 
Đức Giêsu không định thành lập một nhóm gồm toàn những người hoàn hảo, 
nên ngài đã chọn sự có mặt của Lêvi. 
Như thế ranh giới giữa “môn đệ” và “tội nhân” đã bị xóa. 
Môn đệ chính là tội nhân được kêu gọi để chia sẻ tình bạn và sứ vụ.
Lêvi diễn tả niềm vui của người được gọi bằng một bữa tiệc, 
trong đó ông mời các bạn bè đồng nghiệp đến để chia tay. 
Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. 
Ngài đã vui vẻ nhận lời, đã đến nhà và ăn với họ, dù đây là điều bị cấm. 
Để biện minh cho thái độ này, ngài coi tội nhân như người đau ốm. 
Người đau thì cần thầy thuốc, cần sự lại gần để săn sóc của lương y. 
Họ cần chữa lành và đón nhận, chứ không cần phán xét và lên án. 
Đức Giêsu chính là vị lương y đến để kêu gọi người tội lỗi (c. 17).
Nhưng có ai trong chúng ta lại không là tội nhân? 
Có ai trong chúng ta lại công chính thánh thiện 
đến độ không cần phải sám hối (Mc 1, 15)? 
Hôm nay Đức Giêsu vẫn đi ngang qua đời tôi, tưởng như tình cờ, 
vẫn thấy tôi và gọi tôi, vẫn mời tôi ra khỏi chỗ ngồi vững chãi của mình, 
và bỏ lại tất cả sau lưng. 
Xin được như Lêvi đứng lên ngay để theo Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, 
thế giới hôm nay cũng như hôm qua 
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng 
vì không tìm được một người để tin; 
vẫn có những người đã chết từ lâu 
mà vẫn tưởng mình đang sống; 
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, 
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; 
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, 
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống; 
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, 
dù không phải là người phong…
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ 
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, 
xin cho chúng con 
nhìn thấy chính bản thân chúng con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.