30 thg 6, 2012

29 thg 6, 2012

HAI CỘT TRỤ CỦA G.H.

Mừng Kính 2 Thánh Tông Đồ : PHÊRÔ & PHAOLÔ.
Hôm nay mừng kính quan thày
Phêrô đá tảng ,Chúa xây thành trì
Phao lô đồng trụ khác chi
Hai vị thánh cả thực thi lệnh truyền
Tông đồ, rao giảng, dạy khuyên
Đứng đầu Giáo Hội, đưa thuyền ra khơi
Vâng theo tiếng Chúa gọi mời
Ra đi, thả lưới hồn người thu gom
Mến yêu Chúa, lòng sắt son
Gian nan chẳng ngại, thân mòn sợ chi
Theo gương Thày, có xá gì
Gông cùm, xiềng xích, thập hình, chết treo
Phong ba, tàu đắm, hiểm nghèo
Tù đày, roi vọt, máu đào tuôn rơi
Ngày nay vinh hiển trên trời
Chúng con mừng kính muôn lời chúc khen
Dám xin hai Đấng thương xem
Con thuyền Giáo Hội vẫn còn xa khơi
Hải đăng soi rọi sáng ngời
Đỡ nâng dìu dắt đến nơi an toàn .

Hoàng Bình.


Thánh Phêrô (Simon) – Em ông Anrê. Ðược Chúa gọi là “Peter”, nghĩa là “Ðá”. Ngài chịu tử đạo vào năm 66 A.D. Ngài xin đóng đinh thập giá đầu xuống đất (trái ngược Chúa Giêsu) để tỏ lòng kính trọng Thầy mình.







PHAOLÔ : Vị Tông Đồ "Lương dân"

28 thg 6, 2012

THÁNH CA TRONG PHỤNG VỤ ( 2 )


BÀI CA CẦN ÐÚNG VỊ TRÍ

- e.  Huấn Thị Thứ Ba để thi hành đúng đắn Hiến chế về Phụng vụ, do Bộ Phượng tự ban hành ngày 5.11.1970 số 3 có viết :
"Hội đồng Giám mục sẽ chỉ định một số bài hát có thể dùng trong Thánh lễ cho những cộng đoàn riêng biệt như thanh niên, thiếu nhi. Những bản hát này phải phù hợp với sự đoan trang thánh thiện của nơi thánh và việc phụng tự, chẳng những trong lời ca nhưng cả trong âm hưởng, nhịp điệu và trong việc sử dụng các nhạc cụ nữa; vì chưng Hội Thánh không loại trừ thứ Thánh nhạc nào khỏi Phụng vụ (MS. 9 ; Hiến chế về Phụng vụ 116), nhưng không phải bất cứ âm nhạc nào hoặc bản hát hay nhạc khí nào cũng có khả năng nuôi dưỡng lời cầu nguyện và trình bày mầu nhiệm Chúa Ki-tô như nhau.
 Vì Thánh nhạc phải hướng về việc cử hành Phượng Tự, nên nó phải có tính thánh thiện và hình thức tốt đẹp (MS. 4) phù hợp với tinh thần và hoạt động phụng vụ, và đặc tính của từng phần phụng vụ, không ngăn trở sự tham dự sống động của cộng đoàn và phải hướng dẫn sự chú ý và tâm tình vào việc thánh đang cử hành".

 - f. Huấn thị De Musica Sacra, số 68b nêu rõ :
 "Âm thanh của các nhạc khí cần phải làm sao gợi lên được vẻ trang trọng, tinh khiết, đạo hạnh, tránh mọi phát hiện nhạc đời và phải hun đúc được lòng sốt sắng của giáo dân".
Những người có trách nhiệm làm công tác thánh nhạc, thánh ca, không phải chỉ lo trau chuốt nghệ thuật là đủ, còn cần một tâm hồn phụng vụ và những hiểu biết về những qui luật của Thánh nhạc. Nếu thiếu sót mặt này, sự hy sinh khổ nhọc của mình cũng mất ý nghĩa và sẽ rơi vào tình trạng "mù dắt mù, cả hai xuống hố ".
 Ðể kết thúc, tôi xin gởi đến tất cả những ai làm công tác Thánh nhạc Thánh ca lời nhắn nhủ của Ðức Thánh Cha Phao-lô VI nhân Ðại Hội Thánh nhạc do các nữ tu tổ chức tại Rô-ma năm 1972 :
"Cha muốn gởi đến các con lời khuyên nhủ này là đối với các con cũng như đối với các linh hồn, mối bận tâm quan yếu của các con phải luôn luôn và trước tiên là biết ý thức về Giáo hội.

Không có nó, thay vì giúp các linh hồn liên kết với nhau trong đức ái, âm nhạc có thể trở nên nguồn gốc sự bực dọc, chia trí, tục hóa và chia rẽ trong cộng đồng tín hữu.
Ðối với các con, ý thức về Giáo Hội, có nghĩa là tìm thấy những nguyên nhân thanh cao của hoạt động âm nhạc của các con trong sự vâng phục, trong sự cầu nguyện và trong đời sống nội tâm.

Ý thức Giáo Hội cũng có nghĩa là nghiên cứu sâu rộng những văn kiện của các Ðức Giáo Hoàng và của các Công đồng để có thể luôn luôn theo dõi các nguyên tắc hướng dẫn đời sống phụng vụ.
 Âm nhạc phụng vụ phải đáp ứng và phù hợp với những nguyên tắc của Giáo Hội. Ý thức Giáo Hội sau cùng có nghĩa là phải tập nhận thức những gì có thể liên quan đến âm nhạc trong Phụng vụ. Không phải tất cả mọi sự đều có giá trị, không phải tất cả mọi sự đều hợp pháp, không phải tất cả mọi sự đều tốt lành.

Ở đây, việc thánh phải liên kết với điều tốt đẹp trong một tổng hợp hòa nhịp và nhiệt thành, cho phép các cộng đồng khác nhau theo khả năng, biểu lộ hoàn toàn đầy đủ đức tin của mình để làm vinh danh Thiên Chúa và xây dựng Nhiệm Thể. Vậy các con hãy biết tuyển chọn cẩn thận, khôn ngoan và vô tư những bài thánh ca, nhờ vào các luật lệ của Giáo Hội hướng dẫn, nhờ tri giác của các con về mặt phụng vụ, nhờ nghiên cứu và rèn luyện năng khiếu, các con có thể thành công, tổng hợp dứt khoát toàn bộ những thánh ca để các tín hữu đồng tâm ca hát trong thập niên sắp tới.

Hiến chế về Phụng vụ đã khuyên bảo các nhạc sĩ sáng tác "những nhạc điệu có tính chất thánh nhạc đích thực ... các lời văn dùng trong thánh ca phải đúng với giáo lý công giáo và tốt hơn cả là được trích trong Thánh Kinh, và trong nguồn Kinh phụng vụ" (Số 121).
Vì vậy cần phải bảo đảm sao để các bản thánh nhạc thật sự trung thành với những nguyên tắc này.
Ðối với những gì thuộc Thánh nhạc, không nên chỉ cảm hứng từ thể nhạc thời trang, vì thể nhạc thời trang thì hay thay đổi và đôi khi mất đi giá trị không những về mặt thiêng liêng, mà còn mất cả về mặt nghệ thuật nữa.
 Các con phải tuyển chọn những thánh ca mà đặc tính thực tế của chúng có thể hòa hợp với phẩm giá nghệ thuật và tinh thần cầu nguyện. Còn về các lời ca, đoạn trích Hiến chế về Phụng vụ mà cha nói trên thật rõ ràng.
 Vì vậy, ta phải cố gắng đạt đến cái gì thật sự có giá trị, và loại bỏ ra ngoài những từ ngữ câu văn đôi khi không mang lại danh dự cho thánh ca, cho văn thể của ngôn ngữ, và trong một vài trường hợp, chúng còn trở nên thô thiển, quê mùa hoặc tương tự như những quảng cáo tuyên truyền hơn là những lời cầu nguyện.
Các lời văn và các điệu nhạc khác không sử dụng được trong thánh đường, tuy đáp ứng được những yêu sách tân thời, đặc biệt là những yêu sách của giới trẻ , có thể sử dụng trong những hoàn cảnh khác, chẳng hạn để giúp vui những buổi giải trí, để hát trong những cuộc họp mặt suy tư và nghiên cứu, để bồi bổ thêm sự cương quyết hay tâm tình hăng say. Nhưng trong Phụng vụ là nơi "thực hiện chức vụ tư tế của chính Chúa Giê-su Ki-tô ... là công việc của Chúa Ki-tô tư tế và thân thể của Người là Giáo Hội ... là tác động đặc biệt thánh thiện" (HCPV, số 7), nên điều xứng hợp nhất đối với Phụng vụ là phải đáp ứng được đặc tính riêng biệt và cao thượng của nó. Ðó là điều người ta phải thực thi việc ý thức về Giáo Hội. Việc ý thức này phải hướng dẫn trí phán đoán và sự tuyển chọn của các con".


Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta và giúp chúng ta luôn phụng sự đúng ý Chúa và Giáo Hội Mẹ chúng ta.


Lm. Giu-se Nguyễn Hữu Triết
Ban Kiểm duyệt Thánh ca
Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh

(Trích trong Hát Lên Mừng Chúa)

 

27 thg 6, 2012

THÁNH CA TRONG PHỤNG VỤ ( 1 )


BÀI CA CẦN ÐÚNG VỊ TRÍ

Tục ngữ La tinh có câu :"Bên này dẫy Pi-rê-nê thì đúng, nhưng bên kia dẫy Pi-rê-nê lại sai". Câu nói chủ yếu nêu lên sự khác biệt về phong tục tập quán giữa các dân tộc; thậm chí giữa các miền trong một nước, mà người lịch thiệp cần phải biết để ứng xử cho đúng.
 Ví dụ : Ở Âu Châu, những người phụ nữ dù già đi nữa mà ở vậy, không lập gia đình, người ta vẫn gọi là "cô"; nhưng, ở Việt nam trường hợp như vậy phải gọi là "bà". Gọi là "cô" có khi đương sự lại buồn, cho rằng người ta không kính trọng mình.

Trong lãnh vực thánh nhạc cũng vậy, vị trí của bài ca cần được đặc biệt lưu ý, chỉ cần đặt không đúng vị trí, buổi cử hành phụng vụ mất đi ý nghĩa của nó. Trường hợp điển hình là dịp di quan Ðức Tổng Giám mục Phao-lô Nguyễn Văn Bình từ Tòa Tổng Giám mục ra nhà thờ Chánh tòa vào hồi 15 giờ ngày 3.7.1995, sau đó có Thánh lễ đồng tế. Buổi lễ hôm đó, ca đoàn đã hát bài "Ơn cha" của tác giả Y Vân vào lúc rước lễ.

Phải nói đây là bài hát ý nghĩa, nói lên lòng hiếu thảo của con cái đối với những người cha. Bài cũng gây xúc động nơi tâm hồn thính giả như bài "Lòng mẹ" của cùng một tác giả. Nhưng, đối chiếu với quy luật thánh nhạc thì điều đó không đúng.

Sở dĩ chúng tôi phải lên tiếng công khai là vì có nhiều nơi lầm lẫn cho như thế là đúng, là hay, vì nhà thờ Chánh tòa là mẹ các nhà thờ, thì mọi sinh hoạt ít nhiều mang tính mẫu mực, tiêu chuẩn. Hơn nữa, buổi lễ lại quá long trọng - trong tang lễ của Ðức Tổng Giám mục có đông đảo giáo hữu cả giáo phận bạn tham dự nữa - chứ không phải vì một ác ý nào cả.

Chúng ta sẽ phân tích từng điểm như sau :

Bài "Ơn cha" là một bài "đời", không phải là bài hát "đạo", càng không phải là Thánh ca, hay Phụng ca. Hát một bài "đời" trong một lễ nghi đạo là không đúng.

Hội Thánh đã có những chỉ thị rõ ràng.

- a. Thông cáo số 41/87 của Ðức Tổng Giám mục Phao-lô Nguyễn Văn Bình nói như sau :
Huấn thị De Musica in Sacra Liturgia, số 4a định
nghĩa "Thánh nhạc là loại ca nhạc được sáng tác để cử hành phụng vụ, nên phải thánh thiện và có nghệ thuật", và đi tới kết luận thực hành như sau: "Những bài ca tác giả đã sáng tác cho những sinh hoạt ngoài đời thì tuyệt đối không được sử dụng trong phụng vụ, dù đã bỏ lời "đời" đi, đặt lời đạo vào, ví dụ bài "Ơn nghĩa sinh thành - Ngày tân hôn - Chuông vang vang ... và nhiều bài khác tương tự." (Tài liệu Thánh nhạc của Ban Thánh nhạc Gp.TpHCM, trang 142-143).


Bài "Ơn cha" tác giả Y Vân không sáng tác cho việc cử hành phụng vụ, cho nên hát lúc rước lễ là không đúng chỗ. (Y Vân không phải là người sáng tác Thánh ca Công giáo)

- b. Trong Thông điệp Kỷ luật Thánh nhạc của Ðức Giáo Hoàng Pi-ô XII ban hành ngày 25.12.1955, số 24, 25 và 26 nói về các tác giả như sau: "Do đó, nghệ sĩ nào không sống theo những chân lý Ðức Tin hoặc sống xa cách Thiên Chúa trong tâm trí và trong hành động thì không được liên hệ xa gần với nghệ thuật tôn giáo. Quả thật, nghệ sĩ đó thiếu con mắt nội tâm để nhìn thấy những điều kiện mà vẻ uy nghi của Thiên Chúa và việc tế tự của Người đòi hỏi. Nghệ sĩ đó nên biết rằng các tác phẩm của mình thiếu ý nghĩa tôn giáo, dù cho tác phẩm đó biểu lộ một con người có đủ khả năng nghệ thuật và được phú bẩm một sự khéo léo về kỹ thuật, nhưng sẽ chẳng bao giờ khơi động được lòng sốt sắng và đức tin xứng hợp với đền thờ Thiên Chúa và sự thánh thiện của Người, và do đó, không được chấp nhận trong những ngôi đền được Hội Thánh thánh hiến, vì Hội Thánh là người bảo vệ và là thầy dạy đời sống tôn giáo. 

Còn nghệ sĩ nào có đức tin vững chắc và đời sống xứng với danh Ki-tô hữu, được thúc đẩy bởi lòng yêu mến Thiên Chúa và sử dụng theo lòng mộ đạo của mình, những năng khiếu do Ðấng tạo hóa ban cho, thì sẽ hết sức cố gắng để biểu lộ và diễn tả, thật khéo léo, thật thanh thoát và tài tình, nhờ những màu sắc, đường nét, âm thanh và sự hài hòa, những chân lý mình tuyên xưng, lòng sùng kính mình hâm mộ, khiến cho việc sử dụng ngành nghệ thuật cao quý này, trở nên cho bản thân như một hành vi tế tự và tôn giáo, và nghệ sĩ ấy sẽ hỗ trợ mạnh mẽ và linh động cho đức tin và lòng sùng kính của các tín hữu.
Những nghệ sĩ như thế, Hội Thánh đã và sẽ không ngừng tuyên dương. Hội Thánh mở rộng cửa các nhà thờ cho họ, sung sướng nhìn nhận sự hỗ trợ lớn lao mà nghệ thuật và những hoạt động của họ mang đến, để giúp cho công việc tông đồ của Hội Thánh được hữu hiệu".


- c. Thông điệp MEDIATOR DEI của ÐGH Pi-ô XII ban hành ngày 20.11.1947, số 40 viết : "Thánh nhạc phải thánh thiện, tất cả những gì có liên quan tới ca nhạc đời đều không được chấp nhận trong nội dung cũng như không được để cho nó len lỏi vào cách trình bày".

- d. Hiến chế về Phụng vụ số 124 viết : "Phải loại trừ khỏi Phụng vụ những tác phẩm nào làm tổn thương đến tinh thần tôn giáo". Hát một bài đời trong Phụng vụ là một sự tổn thương lớn. 


Lm. Giu-se Nguyễn Hữu Triết
Ban Kiểm duyệt Thánh ca
Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh


(Trích trong Hát Lên Mừng Chúa)


* Còn tiếp...

17 thg 6, 2012

HAPPY FATHER S DAY



Mây trời lồng lộng bao la
Làm sao phủ kín công cha giữa đời!
Tình cha như nước biển khơi
Dạt dào muôn thủa, cả đời cho con.

Cha là suối mát mãi tuôn
Con là giọt nước từ nguồn chảy ra.
Thác ghềnh cha vẫn hiền hoà
Đưa con đến tận biển xa cuộc đời.

Cha là hạt nắng đỉnh trời
Sưởi lòng con ấm giữa đời bão giông!
Bên cha con thấy yên lòng
Cho con điểm tựa vững trong đời này.

Quê nghèo sương gió đọa đày
Thương cha vất vả hao gầy tấm thân.
Chắt chiu ngày tháng chuyên cần
Chờ mùa xuân đến nảy mầm đơm hoa.

Cánh cò cõng nắng trời xa
Chở luôn nước mắt của cha đi rồi.
Ngày cha... con cứ bồi hồi
Nhớ cha con mãi đầy vơi nỗi niềm.

Tình cha đâu thể dễ quên
Cha là tất cả... trăm miền ước mơ!
Cha là cả một nguồn thơ
Dắt dìu con tới bến bờ yên vui.

Thành Huân

16 thg 6, 2012

HẠT GIỐNG TỰ MỌC

HẠT GIỐNG TỰ MỌC
Sáng tác : Nguyễn Bách
Tiếng hát : Kim Ngân
Hình ảnh : 40giayloichua
Biên tập : Ánhminh



13 thg 6, 2012

NHIỆM TÍCH TÌNH YÊU

Chén thánh cuộc đời, Chúa đã hiến dâng,
Gánh tội trần gian, máu – nước tuôn tràn.
Rượu giao hòa, thanh khiết nho tươi,
Dâng tình yêu, mang sự sống cho đời.


Nắng Saigon.

7 thg 6, 2012

GIÁO DÂN VÀ BÀI GIẢNG CỦA LINH MỤC





“Ai giảng, hãy giảng lời Thiên Chúa” (1Pr 4,11)


Có thể nói đại đa số giáo dân (GD) khi đến tham dự Thánh lễ đều chú tâm về bài giảng (BG) của linh mục (LM). Một Thánh lễ mà không có bài giảng thì như một bữa ăn ngon nhưng còn thiếu một món gì đó! Và như những thực khách “sành điệu”, người GD ngày nay luôn kỳ vọng các vị LM, các nhà giảng thuyết sẽ cung cấp cho họ những món ngon, mới, lạ, thích hợp...

Tuy nhiên, trên thực tế không phải bất kỳ LM hay nhà giảng thuyết nào cũng ban tặng cho cộng đoàn những món ăn ngon mà họ luôn mong đợi. Thỉnh thoảng chúng ta có dịp nghe người này người kia nhận xét, chẳng hạn: “Cha giảng dài quá, nghe chẳng hiểu gì...”, hoặc “Bài giảng rườm rà mà cha thì nói nhỏ, nhanh, khó nghe lại khó hiểu, chẳng nhớ được gì...”, hoặc “Cha giảng như đọc, nghe buồn ngủ quá, chẳng sinh động gì cả...” vv.

Đây là sự thật rõ ràng, và còn hơn thế nữa, như một vị Giám mục đã chia sẻ: “...Bài giảng lễ thì lòng thòng và chủ yếu là mắng mỏ, hăm dọa, khiển trách, thậm chí bôi bác giáo dân giữa nhà thờ. Bài giảng không dọn nói mãi không kết được khiến cha giống như máy bay không tìm được phi trường. Người nói thường không cảm thấy dài nhưng đối với người nghe là cả một sự chịu đựng. Nhất là nếu chúng ta không có lợi khẩu, chúng ta làm khổ giáo dân, biến họ thành nạn nhân hơn là nâng tâm hồn họ lên. Diễn đàn Lời Chúa là diễn đàn tình thương nhưng rất nhiều cha lợi dụng để trút hết căm hờn lên đầu giáo dân. Không gì mâu thuẫn bằng linh mục lại là thủ phạm gây chia rẽ trong giáo xứ bằng chính lời nói của chủ chăn. Chúng ta tìm cách trừng trị triệt hạ những người đối lập. Không làm được thì chúng ta đem ra giữa nhà thờ để bêu diếu bôi bác” (ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh, Tĩnh tâm thường niên Gp Đàlạt tháng 2-2009).

Quả vậy, nếu GD không hài lòng về bài giảng của LM, thì đó không phải là họ không muốn nghe giảng trong Thánh lễ, mà vì họ cảm thấy việc giảng ấy không đem lại hứng thú và lợi ích gì. Cảm giác không-hứng-thú sẽ dẫn đến việc buồn ngủ, lơ là, lo ra...và nhất là cảm giác bị-tra-tấn bởi phải nghe một diễn giả nói dài, nói dai và...dở! Tội nghiệp cho cử tọa khi phải rơi vào tình huống “khó chịu” như thế.
Thực ra, GD không đòi hỏi quá đáng đâu, vì “Nếu mỗi linh mục đều ý thức giảng thuyết là một phần trong nghề nghiệp của mình, thì tất yếu chúng ta sẽ chẳng có những bài giảng thiếu chuẩn bị, nghèo nàn” (x. Thomas V. Liske STD, “Thành công trên tòa giảng”, ĐCV Á Thánh Quý Cần Thơ 1995, pg 7).

Vậy đâu là ước mong của GD về bài giảng của LM ?

* Điều mà GD ngán nhất, đó là bài giảng dài. Dài so với thời lượng có hạn của một Thánh lễ. Dài so với chủ đề cô đọng cần diễn giảng. Có LM lúc giảng thì dài dòng nhưng khi cử hành những phần còn lại của Thánh lễ thì nhanh như chớp! Rõ ràng là sự mất cân đối trong cấu trúc của Thánh lễ sẽ là chuyện đương nhiên xảy ra và như thế việc hiệp thông toàn bộ Thánh lễ của cộng đoàn sẽ bị ảnh hưởng...Theo ý kiến của nhiều GD thì thời lượng bài giảng nên khoảng 12 phút là thích hợp, tối đa cũng không quá 15 phút. Để đảm bảo tốt thời gian “vàng” này, hẳn là LM sẽ phải đầu tư, nghiên cứu khá kỹ cho bài giảng của mình. Bởi nếu không ngài sẽ rơi vào trường hợp có “điểm xuất phát” mà không có “điểm dừng”. Dài dòng đã vậy, cách diễn giảng thiếu sinh động sẽ tăng thêm sự nhàm chán nữa.

Xin đơn cử kinh nghiệm về giảng của một vị LM, giáo sư và nhà hùng biện như sau: “...Có nhiều vị đọc thuộc lòng trên tòa giảng. Nếu vô tư quan sát, ta sẽ thấy tình trạng ấy thật kỳ cục: diễn giả đọc bài do mình soạn hay người khác viết hay bài mình tóm tắt, trong khi cộng đoàn bị giọng đọc buồn tẻ ấy ru ngủ, chán chường trước cảnh thiếu vắng quen thuộc với sự tiếp cận tươi mát những chân lý của cuộc sống và tôn giáo...nên chỉ còn biết nhẫn nại chịu đựng, lơ đãng nhìn các hình ảnh trên tường hoặc trên bàn thờ để chờ đợi, chờ đợi cái kết thúc ảm đạm. Trên tòa giảng cũng như dưới hàng ghế đều một cảnh nhẫn nại chịu đựng để rồi cùng thở ra nhẹ nhõm khi kết thúc” (x. Thomas V. Liske, sđd, pg 16-17).

Ngày nay, trong thời đại công nghiệp, ai cũng quý thời gian, kể cả LM. Do đó, khi bước lên bục giảng nếu vị giảng thuyết biết điều tiết thời gian sao cho vừa phải thì GD dễ dàng tiếp nhận thông điệp, tránh được cảm giác chán ngán, bực bội. Khi ngồi nghe giảng, GD luôn tự hỏi diễn giả LM đang dẫn mình đi đâu? Bài giảng tốt sẽ được thiết kế theo bố cục rõ ràng. Phần dẫn nhập khác với phần triển khai, phần triển khai cũng khác với phần kết luận. Thực tế, nhiều LM nói lòng vòng, kể hai ba câu chuyện mà vẫn chưa thấy vào đề. Người nghe thì nghe mãi mà không biết cha đang muốn nói gì. Đến khi ngài vào trọng tâm của vấn đề thì thời gian đã ngốn hết quá một nửa thời lượng giảng cần có.

Nhiều vị giảng thuyết thích lấy một vài câu chuyện để “dẫn vào” chủ đề. Nhưng tiếc là câu chuyện thì dài mà nội dung, ý hướng thì chẳng ăn nhập gì tới chủ điểm cần khai thác. Câu chuyện đôi khi là những chuyện thời sự, chính trị trong hay ngoài nước. Những câu chuyện đại loại như thế phần đông ai cũng biết cả, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, tin tức tràn ngập dưới nhiều hình thức. Sự ôm đồm của diễn giả xét cho cùng không mấy tác dụng tích cực, có khi lại còn ngược lại.

Một vị GM lão luyện trong “nghề” giảng đã chia sẻ kinh nghiệm: Một bài giảng được dàn dựng cách khoa học với các tư tưởng đã được chọn lựa về Thiên Chúa và về con người sẽ làm cho người nghe cảm thấy dễ chịu bởi vì thính giả thấy mình được kính trọng do được phục vụ bởi những tư tưởng có chất lượng và cách sắp xếp có khoa học” (ĐGM GB Bùi Tuần, chủ đề “Truyền giáo”, tĩnh tâm LM Gp Long Xuyên 1990).

Nghe LM giảng, GD có thể dễ dàng nhận ra đâu là bài giảng được chăm chút kỹ lưỡng, được chuẩn bị chu đáo, được đầu tư cẩn thận. Diễn giả, nhà hùng biện Mirabeau có nói: “Tất cả bí quyết của nghệ thuật hùng biện là đam mê”. LM tuy không phải là “nhà hùng biện” nhưng nghề của ngài là nói và khi thi hành sứ vụ ngài phải nói. Thực vậy, “Không có nghề nào phải nói nhiều hơn nghề LM. Ta có thể nói không ngoa chút nào rằng LM ‘sống’ để nói. Bên cạnh ảnh hưởng mạnh mẽ của gương sống và kinh nghiệm, lời giảng thuyết của LM là sức mạnh, hay phương thế chủ yếu giúp giúp cho sứ vụ của ngài được thành công...” (Thomas V. Liske, sđd pg 7).

Cha sở họ Ars là một tấm gương về mục vụ giảng thuyết. Chuyện kể lại, cha rất quan tâm soạn bài giảng thật kỹ lưỡng. Cha thường dùng phòng áo để dọn giảng cho yên tĩnh. Cha nghiên cứu các tác giả, có khi xem tới 7 tác giả. Cha đánh dấu những đoạn cần phải chép lại và lắm khi phải phiên dịch tới 40 hay 50 trang sách. Học thuộc lòng trước vào thứ bảy và buổi tối sau khi bổn đạo về nhà, cha đi chung quanh nghĩa địa để lập lại những đoạn khó. Cha lại không quên cầu nguyện trước khi giảng...Cha giảng rất hùng hồn. Có người hỏi: “Tại sao lúc cầu nguyện thì cha nói nhỏ mà khi giảng cha lại nói to thế ?”. Cha trả lời : “Khi giảng phải nói to vì người nghe họ buồn ngủ và nặng tai, nhưng khi cầu nguyện với Chúa thì nói nhỏ vì Người không nặng tai”. Cha giảng rất hùng hồn và dạy dỗ với uy quyền. Bài giảng rất cụ thể với đời sống Dân Chúa và chỉ bảo phải làm gì hay làm như thế nào để giáo dân dễ thực hành.

Một nhà giảng thuyết phục vụ tốt không nhất thiết phải là một nhà thông thái, mà trên hết là một mục tử thánh thiện, một tông đồ nhiệt tình và một nhà truyền giáo đam mê việc gieo trồng Lời Chúa.

* Điều mà GD quan tâm nhất, đó là bài giảng có chất lượng cao. Một bài giảng thu hút GD không hẳn là một “tác phẩm” có nội dung cầu kỳ, được dàn dựng phức tạp...mà là một cuộc “nói chuyện” tâm tình để chia sẻ những điều giản dị, gần gũi và bám thật sát Lời Chúa. Họ mong ước sao họ hiểu được điều LM nói, họ tiếp nhận được một-điều-gì đó sau bài giảng kết thúc, họ nhớ được cái cốt lõi của thông điệp Lời Chúa thông qua bài nói của LM. Cách cụ thể hơn, GD muốn LM đi thẳng vào trọng tâm khi giảng và chỉ nói những gì cần phải nói mà thôi. Lạc đề là điều mà cử tọa dễ nhận ra. Nguyên tắc mong đợi, là “Diễn giả phải làm chủ đề tài của mình” (Albert J. Beveridge).

“Tại một bữa ăn tối, người chủ nhà đề cập với một khách mời rằng ông ta đang viết một quyển sách về giảng lễ, và hỏi xem vị khách có ý kiến gì không. Vị khách ngẫm nghĩ một chút rồi nói gọn lỏn: ‘Hãy đi thẳng vào trọng tâm’...”. Cách tốt nhất để giữ sự chú ý của người nghe là ‘đi thẳng vào trọng tâm’. Chúng ta thường chần chừ không đi thẳng vào trọng tâm, có lẽ bởi vì sợ rằng mình sẽ không còn gì để nói tiếp. Chúng ta cảm thấy mình nên đi vào trọng tâm cách nhẩn nha, từ từ. Nhưng nhiều người cho biết rằng họ muốn chúng ta đi nhanh hơn vào cốt lõi của bài giảng.

Đây là một số ý kiến của họ:

“Tôi thích cách vị linh mục ấy đi thẳng vào điểm chính của bài giảng”;


“Tôi chán những kiểu nhập đề dông dài”;


“Hãy vào thẳng”;


“Đừng dẫn chúng tôi đi lòng vòng.”


“Cha sở thường mở đầu bằng một câu chuyện dài dòng, với những chi tiết không cần thiết”;


“Ngài thường bắt đầu rất hay, dù ít khi có nối kết chặt chẽ với bài Phúc âm. Rồi sau đó thì nghe chán phè!”;

“Ông cha đó luôn bắt đầu bài giảng bằng cách kể lại câu chuyện mà mọi người vừa mới nghe trong bài Tin Mừng. Thật là chán!” (x.Tài liệu “Để giảng lễ tốt hơn” - Nguyên tác “Preaching better - Practical suggestions for Homilists”, ĐGM Ken Unterer (GM Saginaw), NXB Jesuit Communications Foundation 1999 - LM Lê Công Đức dịch và hiệu đính, trang 20-21).

Trong khi nghe giảng, GD mong đợi một bài giảng có chủ đích, có chủ điểm. Họ muốn diễn giả luôn xoáy vào trọng tâm vấn đề để họ có thể nắm bắt được ý hướng Phụng vụ của Thánh lễ đang tham dự. Nếu khi soạn bài giảng, LM biết mình sẽ nói gì, nói như thế nào, thì GD khi nghe giảng cũng muốn rằng họ đang được nuôi dưỡng bằng lương thực nào, chất lượng ra sao. Nhiều diễn giả thích nói lời mình hơn Lời Chúa, trong khi GD rất đói khát Lời Chúa. Tham dự các Thánh lễ Tạ ơn này nọ, người ta dễ dàng được nghe những lời tung hô, tán tụng công đức của một ai đó trong khi “mọi vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng...”. Rồi thỉnh thoảng trong Thánh lễ cầu hồn hay an táng cũng xảy ra việc diễn giả vì quá say mê kể lể ân đức của người quá cố mà quên hẳn Lời Chúa. Bài giảng lúc đó không hơn là một bài “điếu văn”!...

Một vị GM đã từng đặt vấn đề: “Mỗi ngày chúng ta (LM – nv) có luôn trau dồi kiến thức về Kinh Thánh để rao giảng không phải lời riêng của mình, mà Lời Chúa cho giáo dân đang khao khát của ăn nuôi hồn không? Chúng ta có chịu khó suy gẫm trước và thực hành những điều chúng ta phải trình bày cho dân Chúa không? Hay chúng ta đã lợi dụng tòa giảng như diễn đàn để tranh biện, để tự khẳng định mình hoặc chửi mắng la rầy giáo dân? Thật ra, có lúc cần phải sửa dạy, nhưng luôn dùng lời tao nhã, luôn dùng văn từ sao cho xứng với thiên chức linh mục của mình. Hãy bắt chước tiên tri Nathan khi phải sửa sai Đavit...Chúng ta có luôn ra sức dâng lễ sốt sắng, không đọc lua láu quá nhanh hay kề cà quá chậm, làm sao cho Dân Chúa tham dự thánh lễ sốt sắng và tiếp cận với Hy Lễ tuyệt vời này một cách hữu ích để  lãnh nhận tối đa ơn thánh không?(ĐGM Phêrô Nguyễn Soạn, bài “LM, người là ai?”, VietCatholic News 28-02-2005), nguồn:http://www.conggiaovietnam)
Một khi kính trọng các LM như là “thầy dạy các chân lý”, GD cách chung cũng rất trân trọng những gì LM nói, nhất là lúc các ngài bước lên tòa giảng. Với lòng tin, GD theo dõi, lắng nghe vị LM giảng như là đang nghe Chúa nói vậy. Lời nói, dung mạo, cử chỉ, cung cách của ngài sẽ có sức hút đặc biệt nếu ngài đam mê rao giảng Lời Chúa và coi đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và nghiêm túc. Có thể khẳng định như sau, “Công việc của LM quan trọng nhất trong mọi hoạt động của nhân loại. Ngài sinh ra đời chỉ để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chức vụ trung gian ấy buộc ngài phải nói và nói có kết quả cho dân mình, truyền cho họ niềm tin và giáo huấn luân lý mà Con Thiên Chúa đã trao cho con người như là phương thế để đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu trên trời” (Thomas V. Liske, sđd pa 7).

Sau đây là chứng từ sống về vấn đề giảng của LM: “Một hôm, có người hỏi cha Mc Nabb, một nhà giảng thuyết thời danh, xem ngài đã dành ra bao nhiêu thời gian để soạn bài giảng. Ngài trả lời, ‘40 năm’...Khi trả lời như thế, cha Nabb muốn nói là ngài luôn quan tâm chăm lo nghiên cứu và bài giảng đó là kết quả của 40 năm phát triển về phương diện thiêng liêng và trí thức...Có thể nói, kinh nghiệm mục vụ, lòng nhiệt thành vì Nhà Chúa đã ảnh hưởng sâu sắc đến điều ngài giảng từ giảng đài... ” (x.Ferdinand Valentine OP, “Giảng thuyết, một nghệ thuật”, ĐCV Sao Biển Nha Trang)./.

Aug. Trần Cao Khải * Gx TMT tháng 6-2012

4 thg 6, 2012